CHƯƠNG VII
Một bóng người cúi xuống chỗ Việt nằm. Anh nghe hơi thở hổn hển của hắn và tiếng hắn gọi :
- Việt ! Việt ! Sao thế hả ?
Thì ra bóng người đó là Khôi. Không nghe bạn trả lời, Khôi lo lắng gọi tiếp ;
- Việt ơi… Khôi đây mà… Cậu có nghe tớ không ? Trả lời đi… Cậu bị thương hay sao thế ? Tại sao lại nằm dưới hố này ?
Việt thều thào trả lời :
- Việt bị ngã từ trên cao xuống, không thể gượng dậy được… Ái…đau quá…
Khôi
nhận rõ tình thế. Như vậy là Việt chưa kịp báo cho đồn thương chánh
biết. Và trên kia, trong hầm nhà Tư Muôn, một mạng người lâm nguy đang
chờ mong từng phút để được giải cứu.
Nhưng
biết sao được ? Việt hiện bị thương, và có lẽ khá nặng… Chẳng lẽ bỏ
Việt nằm đây, rồi chạy xuống làng cầu cứu ? Khôi đâm ra lúng túng không
biết tính cách nào.
Việt
cựa mình rên rỉ. Một bên chân anh đau nhói. Khôi sốc nách Việt dậy, kéo
bạn lên khỏi vũng lầy, đặt nằm trên cỏ rồi bấm đèn soi chỗ vết thương
của bạn. Việt bị rách một đường da ở chân để lộ cả thịt, máu đọng đỏ
lòm.
- Trời ơi ! Đau quá… Chết mất !
Việt nhăn nhó kêu. Khôi vội ngăn bạn :
- Yên. Đừng kêu thế, trên kia Tư Muôn hắn nghe được, nguy lắm… Rán chịu một chút đi !...
Nhưng
Việt không sao rán được. Vết thương xé thịt, đau buốt đến ngất lịm
người đi. Việt cắn răng, nước mắt ràn rụa, vẫn không nén được cơn đau.
Khôi
quì bên cạnh bạn, loay hoay cả một khắc đồng hồ mà không giải quyết
được gì. Lo cho bạn, anh quên khuấy cả số phận người đội thương chánh…
Anh dặn Việt :
- Cậu chịu khó nằm chờ đây nhé. Tớ chạy về lều lấy mấy viên thuốc cho cậu uống đỡ. Rồi tớ sẽ xuống dưới làng tìm một người y tá…
Việt không nghe gì cả. Anh chỉ muốn làm sao quên được cái đau nhức đang cắn xé ở bắp chân.
Khôi
chạy về lều. Vũ trụ chìm trong thanh vắng. Tất cả như triền miên say
ngủ giữa đêm khuya, và sự êm đềm đó làm Khôi dịu được phần nào xúc động.
Chỉ ít phút sau Khôi đã trở lại với bạn, đem theo bình nước, ít viên
“Aspirine” và cái chăn nhỏ.
Anh trải chăn trên cỏ đặt bạn nằm lên, bảo :
- Cậu uống tạm mấy viên thuốc này cho đỡ đau, rồi nằm yên đừng động cựa, chờ tớ đi kiếm y tá phụ giúp khiêng về lều băng bó cho.
Sợ Việt lạnh, Khôi cởi áo ngoài đắp lên người bạn.
Việt
cố gắng nhếch một nụ cười héo hắt tỏ ý cám ơn. Khôi thật là một người
bạn tốt ! Cuộc cắm trại này sẽ lưu lại những kỷ niệm khó quên…
Khôi tiếp :
-
Thôi, bây giờ tớ đi kiếm y tá đây. May ra có thể tìm được. Nếu không
tất phải đến ông xã trưởng nhờ ông chỉ dùm. Chỉ lo ở đây không có ai
hành nghề y tá thôi… À, dưới làng thấy có một ngôi nhà thờ. Tớ sẽ gõ cửa
xin vị linh mục ở đấy giúp đỡ… Tớ đi nhé… Cậu đã thấy khá chưa ? Có cần
gì nữa không hả Việt ?
Việt
khẽ lắc đầu. Anh thầm trách mình quá sơ suất đến nỗi lâm phải tình
trạng này để làm khổ cho Khôi. Từ đây xuống dưới làng phải đến vài ba
cây số, liệu Khôi có tìm ra được ai giúp không, hay uổng công trở về ?
Xui thật… Và tất cả cũng chỉ vì… Việt chợt nhớ đến mục đích của cuộc mạo
hiểm. Anh gắng gượng bảo bạn :
-
Khôi này, viên đội thương chánh có đưa tớ tấm “lắc” của ông ta. Cậu cầm
lấy đem đến đồn báo cho họ biết. Phải cứu ông ta trước đã, Khôi ạ… Rồi
hãy tìm y tá sau… Tớ thấy đã khá nhiều, không đau lắm nữa… !
- Được rồi, cậu cứ yên tâm, tớ sẽ đi một công đôi việc ! Đừng lo… Mọi việc rồi sẽ xuôi hết…
Hứa với bạn rồi Khôi lặng lẽ biến vào bóng đêm.
Còn
lại một mình, Việt cố gắng thiếp ngủ. Một làn gió nhẹ thoảng đến vuốt
ve mái tóc của Việt. Vết thương ở chân không còn đau buốt nữa, nhưng lại
tê dại đi vì khí lạnh của đêm khuya.
Việt
lo sợ vết thương bị nhiễm độc. Anh mong Khôi tìm ra được người y tá, và
khắc khoải chờ đợi. Hai mắt Việt mở rộng nhìn lên nền trời, đôi môi tái
nhợt, run rẩy như muốn lên cơn sốt…
Đột
nhiên Việt thấy lờ mờ trong đầu hình ảnh ngôi nhà ấm cúng với bóng dáng
dịu hiền của mẹ và hơn lúc nào hết anh thèm muốn ước ao được sự săn sóc
của bà. Rồi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, Việt liên tưởng đến các bạn
bè : đến Bạch Liên, Tuấn, Dũng, Ngọc nga, tới những chiều rảnh rỗi cùng
nhau dạo chơi trên hè phố Sàigòn, la cà trước các hiệu bán sách hoặc ra
đứng ngoài bến tàu hóng gió nhìn ngắm những con tàu, những chiếc chiến
hạm và thèm muốn một cuộc vượt sóng ra khơi. Đô thành vào những lúc ấy
rực rỡ ánh đèn. Những ống đèn màu nhấp nháy trên các cửa tiệm chiếu xuống hè phố từng khoảng sáng dài linh động. Việt
thầm nghĩ :
- Không khéo mình mê sảng mất ! Tại sao lại nghĩ đến ánh đèn thành phố trong lúc này ?
Anh
nhìn lại nền trời đêm. Có một vệt sáng lờ mờ kéo dài trên không trung
làm Việt ngạc nhiên. Phải chăng vệt sáng đó là dải Ngân hà hiện rõ dưới
vòm trời khuya ? Nhưng không, vệt sáng chuyển động như đang tiến tới.
Đồng thời Việt nghe rõ tiếng ầm ì của động cơ từ xa vẳng lại. Anh lắng
tai nghe ngóng, và chợt hiểu vệt sáng quét trên không trung là do ánh
điện của “đèn pha” xe hơi chiếu ra.
Tiếng động cơ nghe mỗi lúc một gần. Nó ngưng lại giây phút để chuyển sang số mạnh hơn.
Chiếc
xe hơi bắt đầu vượt lên con đường dốc, tiến về hướng nhà Tư Muôn. Việt
thầm hỏi chiếc xe đó đến nhà Tư Muôn Làm gì ? Anh tìm thấy ngay câu trả
lời và hoảng hốt kêu :
- Chết rồi… nó đến để chuyển hàng và đem viên đội Thương chánh kia đi…
Việt
cố gắng cựa mình. Nhưng vết thương ở chân làm Việt nhăn mặt. Anh mường
tượng đến sự việc sắp xảy ra ở trên kia, trên nhà Tư Muôn : Viên đội
thương chánh sẽ bị trói chặt, bị bọn buôn lậu ném lên xe đưa đi biệt
tích…
Việt biết điều ấy… Thế mà anh không làm gì được. Uất giận dâng lên nghẹn cổ, Việt muốn vùng lên, gào hét sự bất lực của mình.
Không,
không thể thế này được. Lương tâm Việt phản đối mảnh liệt. Anh không
thể để mặc bọn kia thi hành tội ác của họ… Việt phải can thiệp. Vì, dù
sao nếu người đội thương chánh không được giải cứu kịp thời cũng là do
lỗi ở anh phần nào…
Chiếc xe đã lên tới nửa dốc. Việt nhìn rõ được bóng của nó nổi bật trên nền trời với hai vệt sáng trắng của đèn pha.
Việt mưu tính một chương trình hành động.
Anh rút khăn tay buộc chặt vết thương ở bắp chân, cố chống người dậy bò đi.
Thoạt
đầu Việt chưa cảm thấy đau. Nhưng sau vết thương tê dại vì khí lạnh
theo nhịp chuyển động của mạch máu lại bắt đầu nhoi nhói như có hàng
trăm mũi kim nhọn châm vào.
Việt
lết chậm chạp lên sườn núi, thỉnh thoảng ngưng lại để thở và cho vết
thương bớt đau. Anh nằm úp mặt xuống tay, có khi áp má trên cỏ, nghĩ đến
tính mạng viên đội thương chánh, rồi lại gắng trườn người lên.
Việt
chỉ hy vọng đạt tới đích. Nhiều lúc anh muốn ngất lịm đi vì mệt,hai tay
yếu liệt không điều khiển theo ý muốn được nữa. Hai tai anh ù lên, có
cảm giác như đang chìm vào một thế giới âm u không thực. Tuy nhiên Việt
vẫn cứ cố gắng trườn lên. Anh vẫn nghĩ đến việc phải cứu viên đội thương
chánh, dù chưa biết sẽ phải đương đầu với bọn người liều lĩnh tàn bạo
kia ra sao.
Việt
ngửng đầu lên. Trên kia, đêm tối bao trùm trở lại ngôi nhà của Tư Muôn.
Chiếc xe đã tắt máy và tắt luôn cả ánh đèn. Có lẽ bọn đồng loã của hắn
đã rời xe để vào trong nhà.
- Lạy trời cho mình tới kịp. Và bọn chúng đừng đi ngay…
Ý nghĩ ấy thúc bách Việt vùng dậy. Như một con hoẵng bị thương, anh chồm lên nấp sau một bụi cây chờ vượt lên con đường dốc.
Bỗng
nhiên một ý nghĩ, một kỷ niệm thì đúng hơn, hiện ra trong trí Việt :
Anh vừa nhớ đến Thanh cô gái ở nhà Tư Muôn. Chẳng hiểu Thanh có dự vào
những hành động khả nghi này không ? Thanh có biết rằng nhà “dượng Tư”
của cô là một sào huyệt của bọn người phi pháp, dám giết người ? Thanh
có lo sợ nếu thấy nhà chức trách ập đến ? Và nếu Tư Muôn bị bắt, số phận
của Thanh ra sao ? Cô bé chắc sẽ bị nhốt vào nhà trừng giới hoặc đưa
vào viện mồ côi mất.
Việt tưởng tượng ngay ra cảnh sống âm thầm cô độc mà Thanh sẽ phải chịu. Và tất cả những điều đó chỉ vì Khôi Việt gây ra…
Việt
ngẩn người ra một lát, không ý thức được việc mình làm là phải hay quấy
nữa. Việt đâm ra hoang mang và cảm thấy mệt mỏi chán nản vô cùng.
Anh
ngồi lặng như thế đến năm phút. Chợt anh giật mình nghe có tiếng cửa
mở. Ánh đèn vàng vọt trong nhà Tư Muôn chiếu giãi ra ngoài sân. Mấy bóng
người bước ra, vừa đi vừa rì rầm nói chuyện.
Việt nấp cách đấy độ chừng mười lăm thước. Anh nép sát sau bụi cây nhìn rõ mấy
bóng đó tiến lại phía chiếc xe hơi. Chiếc xe thuộc loại vận tải cỡ nhỏ.
Tư Muôn không ra cùng với họ. Chỉ có ba người, nói giọng lơ lớ không
sõi.
Không
suy nghĩ, đắn đo, Việt hành động theo phản ứng của mình. Anh bật người
dậy, đồng thời nhảy lò cò bằng bên chân lành lên mặt đường. Anh nhảy
được chừng bốn năm thước thì ngã quỵ, nằm vật trên mặt đất.
Ba
bóng người cùng giật mình quay lại. Thấy Việt trong bụi cây nhảy ra, họ
lui bước thủ thế.Nhưng khi thấy Việt ngã xuống đất, họ bỡ ngỡ hỏi nhau :
- Cái gì thế ?
- Một thằng nhỏ…
- Nó có một mình thôi à ?
Sau
khi xem xét sau bụi cây không có gì khả nghi, họ tiến lại phía Việt.
Thấy Việt bị thương, một người lớn nhất trong bọn nhắc Việt lên, mang
vào nhà Tư Muôn.
Sau đó họ đóng sập cửa lại, và bóng đêm bao phủ hoàn toàn trong vắng lặng…
_____________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG VIII