Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

Giã Từ Tuổi Ngọc

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Thôi giã biệt khung trời xưa Tuổi Ngọc
Thuở mười lăm mười bảy của hoa niên
Những chuỗi ngày ôm tiếng hát vành khuyên
Vào giấc ngủ đầy hoa xinh bướm đẹp

Khu vườn nhỏ bây chừ thôi đã khép
Những hoa yêu ngày ấy rụng rơi đầy
Nàng công chúa không còn kết tóc mây
Đeo vào cổ những tràng sương trắng nữa.

Bầy bươm bướm như hôm nào đến múa
Vắng người xem bỡ ngỡ vội quay đi
Trên cành cây buồn bã chú họa mi
Thì thầm bảo: "Hôm nay nàng chẳng đến"

Nghe lời chim mà tâm hồn xao xuyến
Biết nói gì cho chim hiểu lòng ta
Kể từ nay trao hết những ngọc ngà
Mình đã nhặt trong khung trời thắm mộng

Tuổi đôi mươi bắt đầu vào cuộc sống
Vất thơ ngây nũng nịu, chuốc buồn đau
Đốt hành trang, còn lại những gì đâu
Trong cuộc sống với u sầu hiện tại

Chân bước đi mà hồn thơ ái ngại
Quay mắt nhìn tìm di tích ngày xưa
Tuổi thơ ngây thường hờn dỗi nắng mưa
Hay nũng nịu rúc đầu trong áo mẹ

Hơi phật lòng là đôi mi ứa lệ
Một niềm vui nho nhỏ cũng cười vang
Những ngày xưa đi nhặt lá rơi vàng
Làm vương miện kết vào ươm mái tóc

Trên đường quê những buổi chiều tan học
Chạy tung tăng như bướm trắng trinh nguyên
Tuổi thơ ngây nào có biết ưu phiền
Lòng thầm nghĩ con đường quê trải ngọc.

Ôi! Xinh quá một khung trời gấm vóc
Trong như gương và đẹp tựa pha lê
Quả tim hồng chứa trọn một trời thơ
Nhưng tất cả... bây chừ là kỷ niệm

Giờ chợt  thấy tâm hồn yêu màu tím
Nghe nỗi buồn đau nhói chạy vào tim
Nuối tiếc ghê những kỷ niệm êm đềm
Bao tiếng hát, giọng cười, ôi! Ngọt lịm.

Hiện tại đó với nỗi buồn chợt chín
Giữa mùa Xuân trong lứa tuổi đôi mươi
Xin trao tôi trở lại những nụ cười
Vừa rơi mất trong khu vườn tuổi nhỏ.

Hay đánh đổi những gì mình hiện có
Bằng khung trời tuổi ngọc ướp thơ ngây
Vừa mất rồi vào lúc sáng hôm nay
Trong một buổi mùa Xuân hồng chợt đến.

                                                      TRINH CHÍ
                                                   (Vì sao sáng nhất)

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 76, ra ngày 1-9-1967)



Thứ Hai, 29 tháng 8, 2022

Chớ Nhắm Mắt Lại và Chỉ Biết Có Mình

 

 Các em thân mến,

Chắc các em một đôi khi gặp một hạng người chỉ chú trọng đến họ thôi. Ngoài ra họ không bao giờ để ý đến những việc xảy ra cho những người sống xung quanh họ, họ theo đúng tính ích kỷ: chỉ biết có mình, sống chết mặc ai. Hạng người này chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng họ, không biết gì đến những tình cảm cùng ý thích của người khác. Trong mọi hành động họ đều nhắm mắt lại và chỉ biết có họ thôi.

Các em có ưa hạng người ích kỷ này không? Chắc chắn là không!

Một khi chúng ta nhắm mắt lại và chỉ biết có mình, chúng ta giống như người bị bịt mắt, không nhìn thấy sự thật ở đời nên thường hay làm những điều không nên làm, nói những điều không nên nói, có hại cho những người xung quanh và có hại cho cả chúng ta nữa.

Ví dụ trước mặt một người bạn nghèo, đang thiếu thốn mọi bề, chúng ta lại khoe khoang sự giàu sang sung túc của mình, những món đồ quí giá mình vừa mua sắm, gặp một người bạn vừa thi hỏng, mình cho biết lớp mình đậu một trăm phần trăm, chúng ta làm cho bạn chúng ta tủi hổ và đồng thời không còn cảm tình với chúng ta nữa.

Các em thân mến,

Trong mọi hành động, các em chớ bao giờ nhắm mắt lại và chỉ biết có mình. Các em hãy mở rộng đôi mắt các em và cả tấm lòng các em để nhìn xung quanh các em, tìm hiểu và thành thực chú trọng đến mọi người. Được vậy, các em tránh sự thù ghét và nhận lòng quí mến của nhiều người.
 

Thân mến                     
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 105, ra ngày 31-8-1973)

Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2022

Chị Ơi Em Thi Không Đậu, Bị Hất Hủi

 

 Thư của em Đ. - Saigon

Thưa chị em là một thằng bé trai năm nay 13 tuổi, em thi đệ thất năm nay là lần thứ hai. Lần trước em vì học hành dở nên đã rớt; cái đó em cũng công nhận là lỗi tại em vì học bài, làm toán bê bối, không lo nên bị rớt; em buồn đành chịu không trách ai cả... Nhà em gồm có: Ông, Bà, Ba Má, hai chú, bốn cô, em là cháu (đích tôn) ai cũng thương mến cả, nhất là má em, em thích cái gì là má em cho ngay, hao tốn tiền bạc không kể, dù nhà em không giàu lắm... Nhưng khi thi trượt (lần I) thì cả nhà ai cũng la mắng và tỏ ra lạnh nhạt... chỉ có ba em là đánh em chỉ vỏn vẹn 2 roi (đau ít) và ghét em lắm. Má em cũng tỏ ra hết nưng niu như trước. Chị biết không từ đó hàng ngày em bị hạn chế coi ciné, T.V, chơi đùa, bắt làm thêm những việc hơi cực mà ngày thường em ít làm; hễ có gì hơi sai là bị đánh đại mạnh vào người em chớ không dạy bảo, sửa đổi gì thêm chỉ sai lầm là đánh... và... đánh, em buồn và im lặng chịu đựng những cử chỉ đó dần em quen đi đến kỳ thi sau này. Trước kỳ thi hơn 2 tháng chỉ có chú Tám em là bắt em học bài làm toán và đi học thêm, chú ấy là đánh em nhiều nhất và ghét em lắm. Em cũng cố học vì em sợ ngày sau học dở ra đời sống cực khổ nên đã gắng sức học ngày đêm. Đến ngày thi em đi bộ đi thi và đến ngày coi kết quả thì em rớt, em chán nản hết sức và buồn bã vô cùng... Về nhà bị mọi người chửi la gấp 3, 4 lần trước và nhiều người đánh.... Em học tư nhưng tinh thần bị lay chuyển dữ dội, hàng ngày em buồn bã không chơi đùa nữa... Về nhà bị la, đánh bắt làm phụ việc cực nhọc vô cùng. Tinh thần càng ngày càng xuống dốc...

Trả lời:

Em là một trong những em bé Việt Nam may mắn. Phần lớn các em, nhất là ở nông thôn, đã bị thất học, hoặc mồ côi, ít ai còn được sống trong 1 gia đình đầy đủ ông, bà, cha, mẹ, chú, cô, em v.v... như em. Em lại là cháu đích tôn nên được cả nhà nuông chiều, chỉ mới đây em mới bị ghét bỏ mà thôi. Trường hợp của em chưa quá trễ, còn cứu vãn được lắm em ạ.

Em bị ghét bỏ vì em thi rớt vào đệ thất. Thi rớt, theo gia đình em, nó biểu lộ sự học hành kém cỏi của em. Cả gia đình thương yêu chiều chuộng em, dành tất cả thời giờ cho em học, lại đòi gì được nấy ; thế mà điều cả gia đình ước mong, là em vào được đệ thất trường công, điều mà nếu em chăm học em có thể đạt được, cả gia đình em lại bị thất vọng tới 2 lần. Chị thông cảm nỗi buồn đó em ạ. Tuy nhiên, chị tin rằng sự thực gia đình em không ghét em đâu, sở dĩ cả nhà phải có thái độ lạnh nhạt ấy với em một phần vì giận em, một phần cũng để phạt em nữa. Bây giờ em hãy xin lỗi gia đình và hứa sẽ chăm chỉ học, mặc dầu không vào được trường công, em sẽ học trường tư, em sẽ cố gắng, chuyên cần, và em sẽ thu lượm được kết quả. Chị tin gia đình em cũng hiểu rằng số học sinh theo học trường công chỉ bằng một phần mười học sinh trường tư. Và số học sinh trường tư thành đạt cũng nhiều vô cùng. Học trường tư chỉ có cái thiệt rõ ràng là phải đóng học phí. Ngoài ra về các thứ khác, như giáo sư, chương trình học thì cũng giống trường công mà thôi. 13 tuổi đã thi vào đệ thất 2 lần không đậu thì em nên xin ba má cho học đệ thất trường tư là hơn. Nói thế không phải là học trò trường tư dở hơn, nên không vào nổi trường công lại học trường tư được, mà vì thi ào đệ thất là thi tuyển, trường chỉ lựa vừa đủ học trò theo số lớp dự định mở, mà số học trò dự thi có khi đã học qua đệ thất, đệ lục rồi nên sức học vượt trên các em. Thi tuyển chỉ lựa theo thứ tự từ nhiều điểm trở xuống, mặc dù sức học em trên trung bình, mà có nhiều người hơn em, em vẫn rớt. Nếu có năm nào ít người thi, thì sức học em dưới trung bình, vẫn được nhận cho đủ số học sinh, chứ không phải như các kỳ thi tú tài, trung học v.v... Chỉ cần 1 số điểm trung bình là đậu. Chị biết rất nhiều học giả, giáo sư, bác sĩ, luật sư ngày nay, không hề học trường công. Vậy em thưa với ba má, xin lỗi các người, hứa sẽ chăm học, không chơi bời đàn đúm, xin ba má cho tiền học đệ thất 1 trường tư (ba má có thể chiều em, cho em đủ thứ, không kể hao tốn tiền bạc chắc không tiếc em tiền học phí đâu). Qua niên học tới, em rán chăm học, ba má sẽ thấy em tiến bộ, và chị tin chắc chắn gia đình em sẽ yêu thương em trở lại. Em hãy làm rạng danh trường tư đi nghe, em trai.


Chị ĐỖ PHƯƠNG KHANH       

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 49, ra ngày 30-7-1972)

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2022

Dạo Phố Sài Gòn

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Nhỏ dạo phố Sài Gòn 
Tay mẹ nắm tay con
Con tóp tép ăn bánh
Bánh gâteau thật ngon

Nhỏ dạo phố Sài Gòn 
Có anh nhỏ kề bên
Trời chiều nhiều mây trắng
Anh nhỏ cười thật hiền

Hai anh em cười tươi 
Tung tăng dạo phố vui
Ôi ngày xa xưa ấy
Nghĩ lại nước mắt rơi

Chợ Bến Thành đông quá
Bao nhiêu người lại qua
Quán xá thật nhộn nhịp
Lẫn tiếng đàn tiếng ca

Mẹ mua em đầm trắng
Mẹ mua anh sơ mi 
Anh ơi ngày xưa đó
Ta còn lại được chi

Nhỏ dạo phố Sài Gòn 
Cành hoa rũ trên tay
Phố phường xa lạ quá
Bóng đổ nghiêng vai gầy

Nhỏ dạo phố Sài Gòn 
Đường xưa người đâu thấy
Sài Gòn đông vui đấy
Sao bước nhỏ cô đơn?

                          Trần Thị Phương Lan 
                          (Bút nhóm Hoa Nắng)

Cho Sài Gòn trước 1975 thương yêu của tôi...
 

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2022

Vẫn Còn Hy Vọng

 

Suốt mùa đông năm đó, tôi ở làng Castelmare, một làng bị tàn phá gần như hoàn toàn ở gần Livourne (Ý) và sáng nào tôi cũng gặp cụ bà Maria Bendetti. Nhỏ con, mảnh khảnh, nhăn nheo, cụ đi chân không, bận một chiếc áo đen đã bạc, màu đen đã ngã qua màu hung hung đỏ, đầu quấn một chiếc khăn quàng đen, lụm khụm, vai mang nặng một cái gùi nan.

Mặt cụ tóp lại, sạm đen, tiều tụy, ưu tư, mang nét đau khổ, rầu rĩ, thất vọng. Cụ bán cá, những loại cá kỳ dị nhưng không ngon của vùng Địa Trung Hải. Dân làng chỉ sống bằng những con cá đó với ít mì ống. Tôi đã biết làng đó thời còn thái bình, dân chúng sung sướng vô tư lự. Bây giờ họ ở trong một công trường nhỏ xíu, nhà cửa đã sập hết vì bom đạn, chỉ còn đống gạch vụn, không nghe thấy tiếng cười, tiếng hát như ngày xưa. Không khí phảng phất mùi hoa trúc đào nên cảnh tượng thê thảm như trong nghĩa địa, làm cho tôi đau lòng. Nơi đó trước kia tôi thích biết bao, bây giờ chết rồi; cảnh tan hoang trần trụi đó thật xót xa, tuyệt vọng.

Hầu hết các thanh niên đã bỏ xứ đi nơi khác. Nhưng các người già và trẻ con thì còn ở lại; họ lầm lũi đi như bóng ma trong cảnh đổ nát; có mấy chiếc thuyền và mấy chiếc lưới vá víu bậy bạ, họ cực khổ lắm mới kiếm được miếng ăn, chỉ vừa đủ cho khỏi chết.

Trong số những người ở lại có cụ Maria. Đôi khi cụ dắt theo một em bé gái mười tuổi, chắc là cháu của cụ. Gầy ốm, rách rưới, em đi chân không, lon ton bên cạnh cụ, vừa đi vừa rao: « Cá đây, cá tươi đây! » như cố làm cho người ta tin rằng cá mới ở dưới nước lên. Tôi nhận xét hoàn cảnh hai bà cháu mà không khỏi buồn rầu, lo ngại cho họ: họ có vẽ cố bám lấy một dĩ vãng đã qua, qua hẳn rồi! Quả đúng là một ảo vọng!

Một buổi sáng, khi họ đi qua công trường tan hoang, tôi hỏi chuyện họ. Trong chiến tranh họ đã thoát chết khi bị dội bom và bây giờ họ sống trong cái hầm ở hẻm Eustacia, khu nghèo nhất của làng không bị tàn phá.

Vì trong lòng xót xa, đâm ra bi quan, tôi hỏi cụ:

Vì sao cụ không đi nơi khác? Ở đây còn có tương lai gì nữa đâu?… Tàn phá hết rồi… Hết hẳn rồi.

Cụ làm thinh một chút rồi chậm chạp lắc đầu:

Đây là quê hương của mình. Với lại đâu có hết hẳn.

Rồi hai bà cháu bước đi, tôi có cảm tưởng như họ vui vẻ nháy mắt với nhau, ra vẻ hóm hỉnh, biểu đồng tình.

Thấy vậy tôi sinh ra tò mò. Mấy ngày sau, tôi bất giác dò xét xem họ đi đâu, không cố ý rình mò. Buổi sáng tôi thấy họ đi làm những công việc hàng ngày như mọi người, nhưng buổi chiều thì không thấy họ đâu hết. Mấy lần, sau bữa trưa, tôi đi qua hẻm Eustasia: căn phòng nhỏ của họ luôn luôn vắng tanh. Có thể rằng hai bà cháu đó không chất phác như tôi tưởng chăng? Tại sao buổi chiều nào họ cũng đi khỏi? Họ có làm gì ám muội không? Buôn lậu hoặc chợ đen?

Vì nghi ngờ như vậy, nên một buổi nọ, tôi bỏ hẳn giấc trưa trên bãi biển, lại hẻm Eustasia sớm hơn mọi lần. Tôi núp dưới một cái cổng, rình căn nhà của cụ. Tôi không phải đợi lâu. Khoảng một giờ trưa, hai bà cháu ở trong hầm bước ra, mỗi người đeo một cái giỏ không trên lưng; họ nắm tay nhau vui vẻ, hăng hái lên đường. Tôi đi theo rình họ, như một tên trộm.

Hai bà cháu lách qua đám nhà cửa đổ nát. Tới đầu làng, họ tiến vào một con đường mòn cháy nắng đưa xuống lòng sông cạn khô. Tôi đứng trên cao nhìn xuống bờ sông. Tôi ngạc nhiên làm sao, thấy nhiều người cuốc đất, xúc đất trong lòng sông lởm chởm những đá. Hai bà cháu đặt giỏ xuống, rồi bắt đầu làm việc. Mới đầu tôi tưởng họ tìm bảo vật vàng bạc gì đó, rồi tôi thấy đứa cháu gái xúc một giỏ cát, còn bà cụ lựa kỹ từng phiến đá trắng vuông vức bỏ vào giỏ. Khi giỏ đầy rồi, họ gùi lên lưng, chậm chạp leo con dốc dựng đứng để lên bờ.

Họ đi ngang sát chỗ tôi núp. Không biết họ có thấy tôi không. Nếu có thì họ cũng không để lộ cho tôi thấy. Đợi cho họ đi qua rồi, tôi mới theo dõi.

Con đường đưa tới chỗ cao nhất của làng, tới một cái đồi nhỏ bao quát cả miền chung quanh. Mấy lần đi chơi, tôi chưa bao giờ bước chân tới đó: đó là nơi duy nhất không bị tàn phá. Một nhóm người làng đang làm việc trong bụi cây keo. Họ nói nhỏ nhẹ với nhau, không có những cử chỉ huênh hoang, lặng lẽ trộn hồ, đục những phiến đá nhỏ nhắn, trắng đẹp rồi sắp vào nhau, chồng lên nhau thành những bức tường của một kiến trúc rộng lớn.

Mới đầu tôi chưng hửng. Rồi đột nhiên tôi đoán được mục đích của họ, họ tính xây cất cái gì. Tôi nghẹt thở. Những kẻ đó chỉ có một mái nhà đủ che mưa che nắng, còn bao nhiêu đã mất hết. Những ông bà già và trẻ con mà tôi tưởng chỉ là những bóng ma bất lực, hư ảo, vật vờ, đã quyết tâm làm một công tác tập thể đầu tiên là tự lực xây cất một giáo đường mới mẻ, lộng lẫy. Không phải là một nhà thờ nhỏ xấu xí tạp nhạp, mà là một chỗ thờ phụng quy mô, đẹp đẽ hơn tất cả những giáo đường cũ trong miền.

Cụ già và đứa cháu trút giỏ cát đá xuống, nghỉ một chút để thở rồi lại trở xuống lòng sông. Khi đi ngang qua sát tôi, mồ hôi nhễ nhại trên trán, cụ già ngó lén tôi: cặp mắt đen và nghiêm nghị của cụ có vẻ tươi cười dịu dàng mà bí mật, bề ngoài thì bình tĩnh mà bề trong ranh mãnh một cách hiền từ. Cụ có vẻ như bảo: « Sao? Có thực là tương lai của chúng tôi hết hẳn chưa? » Tất cả cuộc đời của cụ hiện rõ trong vẻ nhìn đó, từ dĩ vãng, hiện tại tới tương lai. Một cuộc đời can đảm, nhẫn nại, một lòng tin tưởng bền bĩ, không gì lay chuyển nổi, một ý chí cam nhận cái gì không tránh được, nhất là quyết tâm tin tưởng.

Tôi xấu hổ đứng trân ra đó, trong khi hai bà cháu đi khuất vào đường mòn. Nghĩ rằng mình đã để cho niềm thất vọng lôi cuốn, tôi thấy đau nhói tim như có mũi dao đâm vào đó. Ừ thì tan hoang, đổ nát đó, nhưng đã làm sao? Nếu những người già lụm khụm như vậy và những người trẻ măng như vậy mà còn lòng tin tưởng mãnh liệt như vậy thì thế giới vẫn còn có thể hy vọng được, hy vọng được ở tất cả.

Tôi đứng trên đồi một hồi lâu. Sau cùng khi xuống đồi, lòng đã bình tĩnh, phấn khởi thì ngôi sao hôm hiện lên, tuy còn lờ mờ nhưng đã lấp lánh trên nền trời vô biên và làng xóm chìm dần sau làn sương nhẹ từ biển bốc lên. Nhưng ở « cái nơi tâm linh còn bừng bừng đó » tôi thấy tất cả ngọn lửa chiếu sáng rực rỡ.

 

Tác Giả: A.J. Cronin      

Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch  

(Trong Ý Cao Tình Đẹp)         
 

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2022

Ngồi Xuống Đây Em!

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
( Thơ… Thuở Học Trò ! )
 
Ngồi xuống đây em… vườn hồng mở ngỏ…
Nghe gió mùa thu thở nhẹ mơn man
Và nắng đang lên hồng đôi mắt thỏ
Chim rủ nhau về mở hội thênh thang !
 
Ngồi xuống đây em… hoa cỏ lao xao…
Giọng hót chim muông văng vẳng ngọt ngào
Em vỗ tay vang nhịp đừng gượng gạo…
Câu hát ngọt ngào theo gió bay cao !
 
Ngồi xuống đây em… bên túp lều xinh
Con suối thiên nhiên ấp ủ mộng lành
Ta bày cuộc vui nụ cười tròn nụ
Mơ ước đong đầy trong mắt em xanh !
 
Ngồi xuống đây em… bóng mát mênh mông
Nghe tuổi hoan ca ngọt lịm môi hồng
Em có mê say lạc vào huyền thoại…
Rợp mát thiên đường như vẫn ngóng trông ?
 
Ngồi xuống đây em… má ửng hồng tươi
Vọng khúc ca dao ấm lại tình người
Nghe võng ấu thời ru hơi ấm mẹ
Và tuổi son vàng giăng mắc muôn nơi…
 
                                    (Thành phố Tam Kỳ, 1973) 
                                    TRỊNH CÔNG TRUYỀN 
 

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2022

Hoa Hồng Màu Trắng


 - Mày đi đâu cho khuất mắt tao đi, đồ ăn hại...

Nga nghẹn ngào nép sát vào ngực ba tức tưởi, đôi môi Nga run lên từng chặp. Nga chỉ biết khóc, chỉ có khóc mới nguôi đi hờn tủi.

Nào phải Nga làm chi nên tội, hồi sáng Nga xin má Nga (kế mẫu) tiền để đóng học phí tháng tư, đã 10 tây rồi. Ông hiệu trưởng cứ hăm dọa Nga hoài, ngày nào vào lớp cũng bị thầy kêu lên văn phòng hạch hỏi. Cả tuần nay Nga ngần ngừ chưa dám xin vì ba Nga bệnh, không chạy xích lô được. Thế nên gia đình Nga luôn luôn có chuyện buồn. Ở lớp bạn bè dần dần xa lánh Nga, lúc nào cũng nhìn Nga bằng cặp mắt soi bói như muốn lột trần tư tưởng của Nga. Những lần như thế Nga chỉ im lặng, len lén cúi mặt xuống đất đi vào lớp. Trước kia lớp học đối với Nga là cả một lâu đài thần tiên, còn bây giờ với Nga nó chỉ là địa ngục. Sự học của Nga càng sút kém: tháng trước Nga đứng nhất, sau trụt đến năm và bây giờ là thứ 17. Lúc nghe thầy đọc vị thứ, cả người Nga run lên, mắt Nga mở lớn nhưng em không thấy gì cả, Nga hình dung đến khuôn mặt khắc khổ của ba và những lằn roi của bà mẹ kế, những tiếng chửi rủa... Nước mắt Nga trào ra, em gục đầu xuống bàn nức nở. Trống trường đã điểm và các bạn Nga đã về gần hết mà Nga vẫn không hay. Thầy giáo thấy vậy đến bên Nga khẽ hỏi:

- Nga!... Con làm sao thế?

Không đợi Nga trả lời, thầy tiếp:

- Thầy biết con đang buồn vì tháng nầy con đứng xa, nhưng con đừng nản, còn có cả một thời gian để học và để đứng cao, miễn con đừng xao lãng việc học là được rồi. Con người ta có chí thì nên con ạ.

Nga ngước lên nhìn thầy rồi đột nhiên ôm cặp bỏ chạy khiến thầy nhìn theo ái ngại.

*

Vừa bước vào nhà, Nga đã nghe tiếng quát của dì Bảy:

- Này! Tôi nói cho ông biết, bây giờ con Nga nó hư quá chẳng làm được gì cả; ông thấy không? Cơm nước tôi lo, quần áo giặt giũ tôi lo. Cái gì cũng tôi hết, nó chỉ việc ăn rồi ẵm em, gánh vài đôi nước thôi mà cũng chẳng xong. Hồi sáng này tôi giao cho nó gánh đủ năm đôi nước rồi mới đi học, thế mà mới có ba đôi là nó quẳng thùng ra đó, nó dành cho tôi chắc? Con ông nó có hiếu với tôi thế đó, gớm, con với cái, khổ không?

Giọng ba Nga ôn tồn:

- Thì đến giờ đi học cho con nó đi, về gánh cũng chẳng muộn, bà sao...

- Sao cái gì? Tôi biết mà, hễ nói động tới nó là ông bênh, còn tôi là đồ bỏ hay sao? Dầu gì tôi cũng phải có quyền làm mẹ với nó chứ.

Ba Nga lắc đầu chán nản:

- Vâng, bà là mẹ, tôi có nói gì đâu.

Dì Bảy lại the thé:

- Còn ông, độ rày tiến đưa cho tôi đã giảm xuống gần nửa, thế mà ông còn rượu chè tối ngày, khổ thân tôi quá...

Nga lảo đảo bước vô nhà, ba em kêu lại:

- Nga! Mầy lại đây tao biểu.

Nga sợ sệt bước đến trong khi dì Bảy nguýt một cái rồi ngó mặt ra đường.

- Mầy về mấy giờ đó?

Nga ngước nhìn đồng hồ rồi nói khẽ:

- Dạ hơn mười hai giờ rưỡi rồi ba.

- Đi học giờ này mới về, coi chừng đó. Học hành độ rày ra sao... Đưa sổ đây tao coi.

Tay Nga run run mở cặp:

- Đây ba...

Rồi im lặng chờ lời trách mắng.

Ba Nga liệng quyển sổ xuống bàn:

- Nga! Sao mày học hành tệ quá vậy. Tao cho mày đi học chớ phải đi chơi sao? Liệu đó, tao cho nghỉ học bây giờ.

Nga tái mặt nhìn ông, gương mặt đỏ rực hằn nét giận dữ. Chạm phải cái nhìn của ba, Nga cúi xuống.

Có tiếng dì Bảy:

- Đó ông thấy chưa? Tôi nói có sai đâu...

Rồi bà ngoe nguẩy đi xuống.

Ba Nga rút phắt cây roi quất túi bụi vào mình Nga, bao nhiêu tức giận ông liền đổ trút lên cô bé. Em cắn răng chịu đau không dám làm gì cả. Một hồi như đã mỏi tay, ba Nga dừng lại. Chợt nhìn Nga, thấy tấm thân tiều tụy của con, lòng ông se lại, đôi dòng lệ chảy dài trên đôi má nhăn nheo. Quá xúc động, Nga chạy tới ôm chầm lấy ba. Ba Nga ôm Nga vào lòng, đặt nhẹ trên trán Nga một nụ hôn. Nga sung sướng miệng mỉm cười chua xót.

Đêm đó Nga không ngủ được, lằn roi hồi trưa làm Nga đau nhức, lăn lộn hoài, mãi tới gần sáng em mới thiếp đi. Trong mơ em thấy mẹ dắt em đi chơi. Xuống bãi biển, bà dắt em ra ngoài xa. Bỗng nhiên mẹ và em chìm xuống. Nga hoảng hốt kêu lên:

- Mẹ ơi!...

Nga chới với...

Em giựt mình tỉnh giấc, Nga ôn lại giấc mơ và nhớ mẹ thật nhiều. Ôi! Mẹ của con, mẹ của bé Nga hôi năm năm trước...

Xa xa có tiếng ai ru con:

- "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng".

Nga lại khóc. Bây giờ em mới biết và mới hiểu nỗi khổ của những người mất mẹ. Một cành hoa hồng trắng đã tự cài lên áo em rồi.

- "Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng"...


HỒNG LIÊN        
(Bảo Lộc)           

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 140, ra ngày 1-11-1970)
 

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2022

Chiều Bên Thành Xưa

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Một lần ta đến Di Linh
Ngập ngừng đếm bước thênh thênh đường chiều

Dừng chân thành cũ quạnh hiu
Nghe hồn Chiêm quốc dâng nhiều xót xa

Niềm đau ngút ngọn cây già
Tỏa xanh gốc cỏ xa xa chân đồi
 
Mênh mông theo cánh chim lơi
Tìm hương cố quốc chơi vơi rừng chiều

Kìa, ai tựa cửa đìu hiu
Tìm trong di tích chín chiều xót thương

Một đời oanh liệt đường đường
Giờ đây tan tác khói hương lạnh lùng

Rêu phong gốc tích rưng rưng
Ngày xưa theo nắng cuối rừng buồn tênh.

                                          CAO NGUYÊN HÙNG

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 51, ra ngày 13-8-1972)
 

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2022

Nửa Đêm Kể Truyện


Chú Hai ngồi nơi thềm nhà, ngắm mãi con sáo đen trong chiếc lồng tre treo lơ lửng trên nhánh mãng cầu gần đấy. Nghe chú huýt gió, con sáo như nhận ra tiếng chủ, nó gật gật cái đầu, cất giọng líu lo đáp lại.

Con sáo trâu này chú Hai nuôi nó từ khi còn non nớt cho đến giờ cũng khá lâu. Nó dạn dĩ dễ thương làm sao! Khi chú lại gần nó, nó không hề sợ hãi, trái lại nó nũng nịu nhảy bám lên tay chú những lúc chú đưa tay vào lồng để treo chuối cho nó ăn hay thay nước cho nó uống. Nó thích đứng trên thanh tre vắt ngang giữa lồng, đảo mắt nhìn trời, nhìn mây, đoạn hót lên khúc nhạc vui tươi rộn rã quen thuộc của giống nòi nó. Thỉnh thoảng nó nhảy vội xuống, toan đuổi theo một con bướm rực rỡ vừa thấy lả lướt bay ngang. Nhưng vướng phải chấn song, và cánh bướm đã chấp chới bay đi xa rồi, nó lại thản nhiên trở về chỗ cũ.

Con vật dạn dĩ như vậy, song chú Hai chẳng dám cho nó ra khỏi lồng. Ở châu thành để nó bay nhảy thong thả chỉ tổ làm mồi cho lũ mèo không thì cũng bị trẻ con chốp mất. Nó ở trong chiếc lồng chắc chắn như thế mà có hôm chú Hai còn bắt gặp con mèo vằn của ai lại rình rập bên nó nữa chứ! Chú đã giận dữ vác chổi rượt "tên trộm" một phen chạy cong đuôi...

Một lần khác, nó lại bị đám trẻ nghịch ngợm hàng xóm bao quanh chọc phá. Chú Hai hay chuyện mách với ba má chúng cho chúng bị đòn "nứt đít" ra mới không dám bén mảng tới nữa.

Chú Hai rất quý con sáo. Từ ngày thiếm hai qua đời, chú chỉ còn đứa con trai độc nhất và con chim nhỏ nầy để làm nguồn vui sống. Trưa nào làm việc ở xưởng ra chú Hai cũng không quên ghé qua chợ mua vài quả chuối, ít trái ớt hiểm cho con sáo. Đôi khi chú bảo Quốc, con chú, phải đi kiếm cào cào, châu chấu ở tận đồng cỏ xa về cho nó ăn thêm mập mạnh. Tối đến, tự tay chú xách lồng chim vào nhà, phủ lên lồng một cái mùng bằng vải thô để cản gió lạnh, đồng thời che mắt bọn chuột nhắt chuyên ăn vụng chuối của con chim. Mỗi tháng chú lột lưỡi nó một lần. Công việc này gây nhiều đau đớn cho con vật, song nhờ đó hiện thời nó đã nói được vài ba tiếng người khiến chú Hai càng cưng quý nó hơn.

Chiều nay, như bao chiều khác, chú Hai lại bắc ghế đẩu ngồi tréo ngoải nơi thềm nhà, ngắm nghía con chim của mình. Được một lúc, chú quay đầu gọi vọng vào trong:

- Quốc ơi!

Có tiếng dạ thanh thanh kéo dài của một cậu bé. Chú bảo:

- Lấy cho ba trái chuối cho con sáo ăn coi nào!

Một lúc sau, Quốc bước ra trao cho ba một quả chuối xiêm và nói:

- Tối rồi cho nó ăn làm chi ba?

Chú Hai đứng lên tiếp lấy, tươi cười:

- Ậy, cho nó ăn kẻo tối nó đói bụng. Con đói còn có thể lục cơm ăn, chứ nó đói thì chỉ có nước... khóc thầm!

Đoạn chú bước lại mở cửa lồng, lòn tay vào trong loay hoay buộc trái chuối vào một song tre. Công việc chưa xong bỗng nhiên chú la oải lên, cúi nhìn xuống: Một bầy kiến lửa đỏ rần thi nhau bu cắn chân chú.

- Giống mắc dịch!

Chú Hai xuýt xoa, giậm chân bình bịch cho lũ kiến gan góc rơi xuống đất.

Không ngờ những cử động ấy khiến cái lồng chim mắc trong tay chú bị chao đi, đồng thời cái móc sắt để treo lồng vuột khỏi nhánh cây. Chú Hai kịp quay nhìn lên thì cả chiếc lồng nặng nề đã rơi đổ xuống mặt đất. Con sáo hoảng hốt bay vụt ra khỏi lồng, đáp lên hàng rào gần đó. Chú Hai kêu lên một tiếng:

- Chết!

Và vội vã chạy đến chụp bắt con chim. Bình thường nó dạn thế, nhưng bây giờ có lẽ vì quá khiếp đảm trước sự việc vừa xẩy ra mà nó không hiểu tí gì, nên đâm ra nhát sợ cả chú Hai. Bàn tay của chú vừa chạm vào lông nó đã phóng vút sang nhà bên cạnh. Chú Hai thét bảo:

- Nó qua nhà dượng Năm rồi, đuổi theo mau, Quốc!

Rồi không để đứa con kịp tuân lệnh, chú nhẩy ra mở tung cửa rào.

Có tiếng reo của thằng Cường con dượng Năm, bên ngôi nhà kia:

- A! Mình bắt được con sáo!

Chú Hai tái mặt xông vào. Thấy con chim của mình đang vùng vẫy kêu la trong đôi bàn tay nắm chặt của cậu bé, chú lấy vẻ mặt tươi cười nhỏ nhẹ:
 
- Con sáo của tôi làm xẩy đấy. Cháu cho tôi xin lại nhé!
 
Cường đang cười vui, bỗng xịu mặt, rút tay lại như muốn che giấu con chim đi:
 
- Không! Của tôi bắt được, tôi không trả ai hết! 

Dượng Năm từ trong bước ra, cất tiếng hỏi:

- Gì thế?

Chú Hai cúi chào đoạn phân trần:

- Dạ, con sáo nầy tôi lỡ làm xẩy, may nhờ cháu đây bắt được. Mong dượng làm ơn nói cháu cho tôi xin lại, tôi cám ơn lắm!

Cường chợt khóc òa lên:

- Không đâu ba ơi! Con bắt được nó thì nó là của con. Con để con nuôi.

- Thôi nín!

Dượng Năm bảo con, rồi quay sang chú Hai:

- Lúc trước tôi nói hết lời hỏi mua con sáo, anh không chịu bán nay nó xẩy, con tôi bắt được, anh không có quyền gì đòi lại. Tuy nhiên, tôi cũng trả cho anh số tiền tôi đã định bỏ ra mua nó khi trước đây. 

Dứt lời, dượng đưa tay vào túi quần toan móc bóp lấy bạc, chú Hai vội nói:

- Xin dượng nghĩ lại. Con sáo nầy tôi thương nó lắm. Tôi không muốn xa nó một ngày nữa là...

Dượng Năm ngắt lời:

- Nhưng bây giờ nó đã thuộc quyền của tôi.

Chú Hai thấy nóng mặt:

- Sao lại thuộc quyền dượng?

- Vì nếu con tôi không bắt được, con sáo cũng bay mất...

Chú Hai không thể nào dằn được tính nóng nảy cố hữu. Chú giận dữ nói to:

- Người lớn gì mà ăn nói ngang quá vậy? Chẳng thà con sáo của tôi bay mất. Còn ai bắt được phải trả lại tôi chứ!

Bị chạm tự ái, và cũng chợt nhớ đến những xích mích thường xẩy ra giữa hai nhà, dượng Năm gằn giọng:

- À, anh nhục mạ tôi phải không?

Rồi đột nhiên dượng giựt lấy con sáo trên tay con, giơ thẳng cánh vật mạnh nó xuống nền gạch. Con chim vô tội kêu lên một tiếng bi thảm run rẩy một chốc, và sau cùng nằm yên. Dượng Năm hất hàm:

- Đấy, trả anh đấy!

Chú Hai sửng sốt lặng người. Chú vụt quay lưng trở ra sau khi ném một tia nhìn căm tức về phía Dượng Năm. Thấy Quốc lấp ló nơi cửa chú nạt lớn:

- Đi về!

Thằng Cường bỗng rùng mình. Nó nhận thấy cái nhìn của chú Hai như chứa đựng một lời hăm dọa ghê gớm. Nó hối hận nghĩ thầm:

- Cũng vì mình quen tánh làm nũng mà ba sắp phải chịu một tai họa gì đây?

Trong lúc ấy, cha con chú Hai vẹt đàn trẻ hiếu kỳ tụ họp lố nhố trước sân, hằn học trở về nhà.

Quốc đem cất chiếc lồng tre vào xó bếp, khi chú Hai thẫn thờ đứng lặng trước mái hiên. Chú nhìn quanh, trong lòng vụt cảm thấy hình như thiếu thốn một cái gì. Cây mãng cầu giờ đây đơn lẻ quá, đâu còn chiếc lồng bầu bạn, đâu còn tiếng ca vui vẻ của con chim đáng thương khi nào! Cành lá run lên như thổn thức, thì thào như cầu nguyện.

Từ lúc xẩy ra câu chuyện đáng buồn ấy, chú Hai thường rầy mắng con nhiều lần một cách vô cớ. Dù bị mắng oan uổng, Quốc vẫn lặng thinh hứng chịu, vì biết đây là do nỗi phẫn uất chứa đầy trong tâm não cha mình gây nên. Thật thế, lòng chú Hai hiện giờ như một hỏa lò nóng bỏng, bừng bừng những tia lửa căm giận. Cũng giờ nầy ở bao chiều trước, chú được vui vẻ bận rộn với con sáo: nào đem lồng vào treo lên sà nhà, nào giăng mùng, đuổi chuột cho nó. Bây giờ thì hết cả! Thời gian sao kéo dài và trống rỗng thế kia? Tâm tư tựa hồ rơi vào lạc lõng, chú Hai không biết phải làm gì cho vơi phiền muộn. Chú bực tức quát mắng đứa con, như chính nó là nguyên nhân đem sự đau xót cho lòng mình.

Trời chập tối, sau khi thắp nhang trên bàn thờ xong, chú Hai bảo con cùng đi ngủ. Chú muốn ngủ sớm để lãng quên bao nhiêu sự việc đã xẩy ra, nhưng không thể nào chợp mắt được, đầu óc cứ rối bời những ý nghĩ thù hận quay cuồng. Trái lại, Quốc vừa ngả lưng bên cha một chốc đã ngáy to.

Trong khi ấy không gian vẫn âm thầm đi dần vào khuya vắng. Đâu đây thoảng tiếng thạch sùng tặc lưỡi tiếc thương. Bên hè đàn dế canh thâu lại trổi giọng âu sầu. Gió buốt lướt qua ngàn cây, xao xác. Có tiếng chim heo kêu thét trên trời cao lạc lối hay bơ vơ trong đêm lạnh? Chú Hai nhỏm người lên. Tiếng kêu não nuột gợi cho chú hình ảnh con sáo đem nằm oằn oại ban chiều...

Mãi lâu chú Hai mới thiếp đi trong mệt mỏi.

Nhưng liền sau đó, đột nhiên chú tung chăn ngồi dậy, nhẹ nhàng bước xuống đất. Lặng lẽ như chiếc bóng, chú mặc nhanh bộ đồ đen, rút khẽ con dao nhỏ giắt trên đầu giường bỏ vào túi, đoạn mở cửa sau bước ra ngoài.

Trời tối mịt, chú Hai cố mở rộng hai mắt để nhìn rõ mọi vật. Chú tiến đến dãy rào ngăn sân sau nhà mình với sân mé sau nhà dượng Năm và leo chuyền sang bên kia. Công việc thật dễ dàng, vì rào làm bằng cây đóng rất thấp. Lập tức, chú Hai lần tới cửa sau nhà người hàng xóm. Thình lình một con chó từ đâu nhẩy xổ đến bên chú, sủa vang. Chú Hai cúi nhặt một nhánh cây nằm vướng dưới chân, thẳng tay vụt thật mạnh vào lưng con vật. Nó kêu lên ăng ẳng mấy tiếng, cúp đuôi lẩn mất vào bóng đêm. Liền đó có tiếng động trong nhà, tiếng guốc lê lẹp kẹp, tiếng mở cửa rồi một người hiện ra: chị ở. Một tay cầm cây đèn, một tay che mắt, chị ta dọ dẫm bước ra hỏi lớn:

- Có chuyện gì thế, Tô tô?

Chú Hai vội nép mình sau cái lu nước cao ở sát bên hông chị. Chú nhìn quanh, mắt sáng lên, vớ lấy cái ky hốt rác dựng kề đấy. Đợi chị ở xây lưng lại, chú đứng bật dậy cầm ky quạt mạnh về phía ngọn đèn. Ánh lửa yếu ớt tắt phụt. Nhanh như cắt, chú lách mình vào trong, tai còn nghe chị ở càu nhàu:

- Gớm, gió mạnh quá!

Đặt nhẹ cái ky xuống sàn gạch, chú Hai khoan khoái nghĩ thầm:

- Không ngờ mọi việc đều êm xuôi như mình đã nghĩ!

Móc túi quần lấy con dao nhỏ, cầm lăm le, chú rón rén tiến lên nhà trên.

Có tiếng ngáy vang từ một gian phòng. Chú Hai hồi hộp xô cửa bước vào.

Đây rồi, dượng Năm, gã hàng xóm hiểm ác! Y đang say sưa với giấc ngủ bình thản vô tâm.

Hai tay y buông thõng, chính những cánh tay tàn nhẫn đã giết chết con sáo vô tội ban chiều.

Chú Hai giận sôi lên, chú siết mạnh cán dao, vụt giơ cao khỏi đầu, hét to một tiếng, hạ xuống...

Nhưng ngay lúc đó, một bàn tay lạnh ngắt của ai đã nắm lấy cườm tay chú, giữ chặt lại...

- Ba ơi ba! Tỉnh dậy ba!

Chú Hai giật mình thức giấc. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.

Mồ hôi ướt đẫm áo, chú gượng mỉm cười trước nét mặt lo lắng của Quốc.

- Ba mớ hả con? Không sao, con nằm ngủ lại đi!

Quốc nằm xuống và hỏi:

- Ba mơ thấy chi vậy ba?  
 
Chú Hai trầm tư một lúc lâu, rồi chậm rãi nói:

- Con hãy nghe câu chuyện ba sắp kể đây, sẽ rõ giấc mơ mà ba vừa trải qua như thế nào.

Chú hắng giọng, bắt đầu kể:

- Vào đời nhà Tùy bên Trung quốc, tại thành Lạc dương có một người trai tráng tên là Vương Thế Sung tánh tình khí khái lại rất giỏi võ nghệ.

Một hôm Thế Sung sắp sửa vào rừng săn bắn độ nhựt như mọi khi, bỗng có anh họ là Vương Minh Đức đến viếng. Sau tuần trà nước, Minh Đức hỏi em:

- Em còn nhớ con chim anh võ của mẹ anh chứ?

- Ồ sao lại không? Nó vẫn còn khỏe và nói nhiều như trước hở anh?

Minh Đức gật đầu buồn bã:

- Vâng. Nhưng nó đã cắn đứt dây buộc cẳng bay mất rồi.

Thế Sung sửng sốt:

- Con chim ấy rất dạn và mến bác gái, có lý nào nó lại bay đi luôn. Hay nó bị lạc ở phương nào?

- Anh cũng nghĩ thế. Hiện giờ mẹ anh vì thương tiếc nó quá mà nhuốm bệnh. Anh không thể ngồi yên nên đến nhờ em đi tìm hộ cho. Em thường đi đây đó chắc phải rành đường đi nước bước hơn anh. Mong em vui lòng giúp giùm, anh muôn vàn cảm tạ.

Minh Đức là người ân giúp đỡ Thế Sung luôn nên được chàng nhận lời ngay.

Khi Minh Đức đã ra về, Thế Sung bèn sắm sửa xách lồng đi tìm con chim anh võ. Song trọn ngày đó, chàng lùng kiếm khắp thành, vẫn không thấy dạng con chim đâu.

Sáng hôm sau, Thế Sung lại tiếp tục công việc anh mình giao phó. Lần nầy chàng đổi hướng, lần sang các làng mạc kế cận. Đi đến xế trưa, trải qua suốt mấy dặm đường, nhưng kết quả cũng như hôm trước. Trời nắng hừng hực, Thế Sung mệt nhọc ngả ngồi dưới một tàng cây. Giữa lúc tràn đầy chán nản, chàng chợt thấy một đám trẻ xúm xít quanh một gốc cổ thụ, tranh nhau bàn bạc, chỉ trỏ lên một nhánh rậm lá. Thế Sung lấy làm lạ nên lại gần chúng xem có chuyện gì.

Bỗng chàng kêu lên mừng rỡ. Chính con chim anh võ của mẹ Minh Đức đang đậu trên nhánh cây kia. Thấy mặt Thế Sung, con chim khôn ngoan kia ngó xuống gọi:

- Chú Sung, cứu tôi vơi! Tôi bị vướng trên nầy, bực lắm, bực lắm!

Thế Sung bèn bỏ lồng, leo lên gỡ dây cho con vật. Được thong thả, nó bay đáp xuống đất, tự nhẩy vào lồng. Thế Sung xách lồng trở về, lòng vui vô hạn.

Khi đi ngang qua nhà Thủy Yếu, một trọc phú ở gần đấy, Thế Sung gặp hắn đang đứng chơi ngoài sân. Thấy chàng xách chiếc lồng nhốt con chim đẹp, Thủy Yếu gọi lại đòi xem, đoạn hỏi:

- Con chim này biết nói chứ?

Thế Sung chưa kịp đáp, con anh võ vụt bảo:

- Thôi về, chú Sung.

Thủy Yếu thích thú cười hô hố, rồi bảo:

- Cậu hãy bán nó cho tôi đi. Tôi trả ba trăm lượng bạc,

Thế Sung lắc đầu:

- Thưa ông dầu ba ngàn lượng tôi cũng không bán, vì con chim nầy của bác tôi, bả thương yêu nó lắm.

Quen thói hống hách hiếp người, dùng tiền bạc để đánh đổi được tất cả, nay trước câu nói ngạo nghễ của Thế Sung, Thủy Yếu giận đỏ mặt. Thình lình hắn chụp bắt con chim anh võ, nắm cẳng xé tét nó ra làm hai mảnh, quẳng đi xong ngang nhiên quay vào nhà.
 
Thế Sung vô cùng tức giận. Chú lặng nhìn theo bóng dáng tên trọc phú, rồi lầm lũi về nhá.
 
Đêm ấy, Thế Sung mài gươm thật bén, trở lại nhà Thủy Yếu...
 
Nghe chú Hai kể đến đấy, Quốc bỗng rùng mình kêu lên:
 
- Thôi con đã biết rõ giấc mơ của ba, và ý định nung nấu trong lòng ba rồi.
 
Cậu bé cầm tay cha, van lơn:
 
- Đừng làm thế ba ạ! Xin ba nghe con thuật lại một câu chuyện mà thầy con đã kể cho chúng con trong lớp:
 
- Một vị vua nọ, có mười chiếc lọ cổ hết sức đẹp. Đức vua quý chúng hơn tất cả mọi vật trên đời. Ngài đặt chúng trong tủ kính chạm trổ tinh vi, giao cho một thị thần tin cẩn mỗi ngày phải lau chùi chúng đến bóng như gương.
 
Chẳng may một hôm viên thị thần lỡ tay đánh vỡ mất một cái. Thế là nhà vua nổi trận lôi đình, thét võ sĩ đem chém đầu tên quan vô ý. Giữa lúc nguy cấp, may thay có một quan đại thần bước ra quỳ tâu rằng:
 
- Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ tha tội cho viên thị thần, và truyền dẫn hạ thần đến nơi để lọ cổ. Thần sẽ có cách làm cho chiếc lọ vỡ lành lại như xưa.

Nhà vua mừng rỡ thuận ý. Khi đã đứng trước chiếc tủ đựng lọ quý, quan đại thần ngắm nghía một lúc, rồi đột nhiên xô đổ chiếc tủ, làm vỡ nát chín cái lọ còn lại, đoạn phủ phục chịu tội:

- Xin bệ hạ cứ giết hạ thần. Sở dĩ hạ thần hành động như vậy là để cứu chín mạng người sắp chết oan vì chín cái lọ quý giá đó.

Nhà vua chợt tỉnh ngộ, tha tội cho quan đại thần và cả viên thị vệ vì ngài thừa hiểu rằng:

"MẠNG NGƯỜI LUÔN QUÝ HƠN VẬT"

Câu chuyện đơn giản vừa dứt, chú Hai cảm động ôm choàng lấy Quốc:

- Con có lý. Ba sẽ bỏ cái ý định trả thù ghê gớm kia. Nhưng nếu còn ai chạm đến con chim thứ hai của ba, ba sẽ không nhịn đâu!

Quốc ngạc nhiên:

- Con chim thứ hai nào ba?

Chú Hai mỉm cười:

- Thì chính con chim Quốc đang nằm bên ba đây.

Quốc cười vui sung sướng trong lòng cha.

Bao nhiêu oán hận tiêu tan, chú Hai thiếp dần vào giấc ngủ yên lành.


NGUYỄN VĂN NGHỆ      

(Trích từ tuyển tập truyện ngắn Tuổi Hoa "Chiếc Áo Màu Thiên Thanh")

Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022

Tháng Tám Mây Ngàn Bay

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tháng tám về đây nắng hạ tàn
Lạnh lùng cơn gió bóng mưa sang
Lá rơi từng chiếc ngoài hiên vắng
Vàng võ cho lòng thêm xốn xang

Tháng tám về đây mây ngàn bay
Nắng xuống, chiều rơi, hết một ngày
Lãng du, khói thuốc buồn hư ảo
Phiêu bạt, nghe buồn dâng mắt cay

Tháng tám về qua bỗng nhớ nhiều
Dưới chân đồi nắng thoáng liêu xiêu
Giọng hò nghe vẳng ngoài xa vắng
Sương lạnh mây ngàn thêm hắt hiu

Tháng tám về ngang gió lạnh lùng
Ai buồn lên ánh mắt thu trong
Mùa thu chưa đến sao hờn dỗi
Để tự hỏi lòng sao bâng khuâng

Tháng tám, mưa rơi phía cuối đường
Đèn vàng, ai đếm bước cô đơn
Kỷ niệm ngày nao giờ lãng đãng
Lạc lõng đêm chìm trong mù sương

Tháng tám rồi đây áo mơ bay
Phố vắng chiều nghiêng trên vai gầy
Dáng ai chầm chậm dần khuất lấp
Thơ thẩn hoàng hôn xuống chiều nay...

                                                   Thơ Thơ
                                       (Bút nhóm Hoa Nắng)
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>