CHƯƠNG MƯỜI
Tháng 7 đến, sắp nghỉ hè. Lúa nghiêng mình dưới làn gió nóng, trĩu hạt,
sắp chín vàng. Gavin và tôi rong chơi cùng khắp, triền núi Garshake mọc
đầy dâu rừng, chúng tôi hái ăn và mang về cho mẹ cả xô đầy, mẹ rất thích
vì thứ dâu rừng làm mứt ngon thập bội so với thứ mứt đại hoàng mà chúng
tôi phải cố nuốt hàng ngày.
Hai đứa tôi còn tắm suối, lần đầu tôi tập bơi, đàn cá vàng kinh ngạc thấy người, lội nhanh để trốn, chạm cả vào chân chúng tôi. Tôi thích thú kêu to và hai đứa cười ròn rã. Vùng vẫy trong nước thật quả có ích: mọi ưu phiền của tôi như trôi tuột, như được rửa sạch.
Rồi chúng tôi chạy nhảy bằng thích và cuối cùng nằm dài lên cỏ, ngửa mặt nhìn trời, tận hưởng hạnh phúc. Vòm trời trong xanh, không khí tinh khiết, ấm áp, nắng vàng, cây lá xanh tươi và trong tôi bừng lên sức sống.
Có lẽ tôi đã sống như một kẻ ngoại đạo. Làn gió hè thổi tan những ý tưởng về Thượng Đế ra khỏi tâm trí, tôi chả hoài hơi lưu tâm đến những bưu thiếp bà gửi về. Tối tối, tôi chả còn e ngại bọn quỷ dữ nấp ở xó nhà chỉ lăm le ám hại linh hồn tôi, như lời bà. Vừa đặt lưng xuống giường là mắt tôi nặng chĩu ngay, có khi chỉ vừa kịp đọc vội, đọc vàng một câu kinh ngắn cho có lệ.
Nhưng không bao lâu, tôi hay tin là sắp phải xa Gavin: mỗi dịp hè ba nó thuê một trại mát vùng Perthshire, ở đó có thể săn bắn, câu cá (một điều xa xỉ mà sau này người ta sẽ trách ông). Gavin nghỉ hè tại đó, một vùng cao nguyên đầy cỏ dại và thơ mộng.
Chị Julia không ngớt lặp đi, lặp lại cho tôi biết rằng tôi có thể đến đó nghỉ hè với Gavin. Mà tôi, tôi cũng rất thích, song than ơi! Áo quần thảm hại quá, chưa kể phí tổn di chuyển bằng tàu hỏa và nhiều khó khăn khác về tài chánh khó nỗi vượt qua, vì vậy, dự định tốt đẹp ấy bị bóp chết ngạt từ trong trứng!
Hai đứa tôi chia tay ở sân ga, mắt mờ lệ. Chúng tôi nắm tay nhau thật chặt không muốn buông ra và hứa trung thành cùng là nhớ đến nhau luôn.
Trọn tháng ròng, tôi chỉ biết lang thang bên mấy ngôi nhà tranh có rào đầy bụi rậm. Gió thổi hun hút giữa lùm cây nghe như tiếng thở dài ảo não của đất đai đã cạn dần sinh lực.
Phần đông các gia đình khá giả ở Levenford đều đi nghỉ mát ở bờ bể. Thành phố đìu hiu vắng vẻ trở thành xa lạ đối với tôi, y như một thành phố bị quân ngoại xâm chiếm đóng.
Gavin vắng mặt nhưng đều đặn gửi thiệp về, giọng nó tràn ắp nồng nhiệt làm tôi càng nôn nả mong gặp nó.
Thế rồi, một buổi chiều tôi đi dạo trước khi vào làm một bài luận dài ngoằng về Marie-Stuart, nữ hoàng Tô Cách Lan, tôi lại gặp Jamie – anh vẫn có lệ chiều chiều đến ngồi trên thành tường thấp bao quanh vườn nhà tôi – quay lưng vào nhà. Chiếc khẩu cầm trên miệng, anh thổi lên một điệu nhạc rất lôi cuốn, tôi nghe mê nhưng không biết tên nên đặt là "điệu nhạc của anh Jamie" – Anh cứ điềm nhiên thổi trong lúc tôi lẳng lặng ngồi xuống bên cạnh. Chúng tôi cùng tận hưởng hơi mát truyền lên từ thảm cỏ vàng đẫm sương chiều, từ những cụm mây mù vây kín những mái tranh khô héo.
Cỡ bảy giờ, dì Kate đầu trần, hai tay thọc vào túi, cổ áo choàng mỏng mầu xám kéo cao lên, rời nhà đến thăm cô bạn. Dì làm như chỉ thấy có mình tôi. Còn Jamie? Anh cũng làm như không thấy dì, có điều dì càng đi xa, điệu nhạc càng to lên như đuổi theo sát gót. Tôi hiểu lờ mờ rằng đây chính là một dạ khúc Tô Cách Lan, chậm, dìu dặt, thấm thía...
Một hôm, cảnh đó tái diễn, và dì ngừng lại trước chúng tôi đột ngột, giọng dì nghiêm nghị:
- Robert! Cháu nên vào nhà thì hơn!
Tôi chưa kịp trả lời dì thì anh Jamie ngừng thổi kèn, đón lời:
- Kìa, thằng bé có làm gì bậy đâu?
Dì Kate trừng mắt nhìn anh Jamie, tia nhìn giận dữ, nhưng anh vẫn thản nhiên làm dì phải quay đi không biết nói gì khác nữa. Giọng lửng lơ, anh lại nói:
- Chào! Buổi chiều hôm nay trời đẹp làm sao!
- Chắc chắn trời sắp mưa!
Dì tôi trả đũa, Jamie vẫn tươi cười:
- Có thể lắm, nhưng hại gì, một cơn mưa nhỏ ấy mà!
- Anh giữ tôi lại để nói chuyện thời tiết đấy hẳn?
Giọng dì dấm dẳng, nhưng trong cái tranh tối tranh sáng của buổi chiều, tôi thấy dì đẹp ghê đi: thân hình cao, rắn chắc, chân thon, thẳng. Jamie lơ đãng đưa kèn lên miệng thổi vài tiếng rồi nói:
- Tôi nghĩ đây là một buổi chiều lý tưởng để... đi dạo...
- Hả? Đi dạo? Xin hỏi anh: đi dạo ở đâu?
- Ờ! Đâu mà không được...
- Dễ nghe há? Tôi không định đi dạo, tôi đi thăm bạn tôi, anh hiểu chưa?
Dì sắp quay đi, tức thì Jamie nhảy phóc xuống, phủi quần, nói mau:
- Tôi cũng đi đường ấy. Tôi xin phép được đưa cô đi!
Dì Kate có vẻ bối rối, không nói năng gì. Nhưng tôi có cảm tưởng là khi hai người sóng đôi được một đoạn thì bóng tối đã che mất đôi chân cong của Jamie! Phải! Quan tâm làm chi đến đôi chân? Đáng kể là tấm lòng kia chứ!
Nán lại một chút chờ họ đi khuất, tôi vào nhà, mở cái cặp ra, soạn sách vở làm bài. Nơi bàn ăn, cậu Murdoch có vẻ khá chăm chỉ, nhưng tôi ngạc nhiên thấy cậu không hề lật sách. Cậu gãi đầu liên hồi, gầu rơi đầy trang giấy. Tôi tự hỏi cậu có thực sự học không vì vài bận tôi thấy giữa các trang sách của cậu thò ra một cuốn mẫu hạt và cách trồng tỉa, bằng chứng hiển nhiên về sự ham thích trồng trọt của cậu tôi.
Suốt ngày, cậu ngồi học một cách miễn cưỡng, day trở không ngừng, đứng lên rồi ngồi xuống, khi thì chạy đến trước gương nặn mấy cái mụn trứng cá, khi thì lẻn ra vườn, lang thang như một tâm hồn đau khổ. Đôi lúc vô tình cậu hé cho tôi thấy rõ tư tưởng thầm kín của cậu:
- Robert này, mày biết không: bên Hòa Lan họ trồng từng mẫu Uất Kim Hương cơ đây! Tưởng tượng coi: từng mẫu Uất Kim Hương?
Tối tối, ba tôi ngồi ngay sau lưng cậu, im lặng và kiên nhẫn như một bác đánh xe ngựa. Sẽ có cuộc thi tuyển vào Quốc gia Bưu Điện tháng tới. Ngày ấy càng gần, ba càng nắm chặt dây cương hơn, tôi dám chắc ba không ngần ngại gì mà không dùng roi, nếu thấy cần và con ngựa khốn khổ chắc bạn đã rõ: không ai khác hơn là cậu Murdoch của tôi!
Ba nhất định cậu tôi phải đậu, không chỉ để bảo đảm tương lai của cậu mà còn để thỏa mãn tính kiêu hãnh của ba. Ba đã không thành công và được yêu vì trong xã hội, ông cần trả thù, ông ao ước hết lòng được báo tin cho mọi người, từ ông Thị trưởng, luật sư Mc Kellar, bác sĩ Lair, cho xếp ông, bằng giọng hãnh diện rằng chính con trai thứ của ông đã trúng tuyển vào Quốc gia Bưu Điện!
Tôi sẽ sàng đến ngồi gần cậu, hết sức sẽ sàng để tránh làm rộn người đang học thi. Mẹ đã cẩn thận bao sách tôi bằng loại giấy nâu dày để giữ cho lâu bền – ở nhà này không được làm hư hại bất cứ một vật gì – Ông tôi thì đề tên tôi lên ngoài bìa bằng nét chữ rắn rỏi và rất đẹp. (Tôi đã lên lớp ba tháng nay rồi. Thầy giáo mới, ông Singer hói đầu, cử chỉ từ tốn, chậm chạp và rất thứ tự, tỏ vẻ ân cần đối với tôi. Tôi tấn tới rõ ràng, tỏ ra có năng khiếu đặc biệt). Nhưng tôi không bao giờ kể chuyện đó ra với ba tôi, vì tôi biết ông không cần quan tâm đến. Trong khi soạn cặp, vô tình tôi làm rơi tờ ghi phiếu điểm thi tam cá nguyệt đệ nhất xuống gạch làm ba chú ý, tôi lúng túng đỏ mặt lên làm ba thêm nghi, ra hiệu đưa ông xem. Tờ giấy ghi phiếu điểm mầu vàng nhạt, khá dày, do chính tay thầy Ginger ghi chép: tôi được nhất về Toán, Địa lý, Sử ký, Anh văn, Pháp văn, nhì môn Vẽ và được xếp hạng nhất ở lớp.
Xem xong, ba có vẻ ngạc nhiên, nhìn tôi dò xét, như... nghi ngờ. Mà làm sao không tin chớ: chữ ký và chữ viết đều do tay thầy tôi. Song tôi ngạc nhiên thấy thay vì hài lòng, ba tôi trả tờ giấy với sắc mặt không vui. Tôi khổ sở chúi mũi vào trang sách.
Im lặng. Chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ, tiếng lật sách, tiếng cựa mình trong ghế của ba kêu lên ken két. Quên, còn tiếng kim đan của mẹ nữa chớ: mẹ đang đan khăn choàng cổ cho cậu Adam. Luôn luôn đan khăn choàng cho cậu Adam! Chín giờ tối, dì tôi về và đi thẳng lên lầu sau khi chào cha mẹ. Chúa ơi! Tôi có lầm không: hình như dì hát khe khẽ bản nhạc của Jamie?
Chín rưỡi, mẹ nhìn tôi ra hiệu, tức thì tôi dẹp sách vở hết sức cẩn thận vì nơm nớp lo sợ đụng chạm bàn ghế, ba sẽ nổi giận lên, rồi tôi chui vào phía sau màn, cái góc của tôi.
Chúa ơi! Tôi đói quá đi! Sao mà y như chưa ăn chiều vậy! Ước gì có mẩu bánh mì nhỉ! Tôi biết mẹ không nỡ từ chối với tôi, nhưng làm sao xin được giữa lúc này? Nén cơn đói, tôi thay áo và quỳ gối đọc Kinh, đoạn lên giường.
Đôi khi, tôi thao thức tận lúc cậu đi ngủ. Cũng là lúc ba mẹ thì thầm bàn tính chuyện nhà. Tôi nghe thoang thoáng tiếng được, tiếng mất. Sở vệ sinh Ardfillan đòi ba nộp bản tường trình về việc hốt rác (Trời ơi! Tưởng gì lạ!). Hôm nay bà mua thịt bò hết bao nhiêu?... Đắt quá vậy? (Hoài! Lúc nào ông cũng chê mẹ tôi mua đắt!). Giọng ông cao hơn: "Năm nay bãi bỏ chuyện nghỉ hè ở bãi bể đi, để tiền gởi vào hội bất động sản, tốt hơn". Tiếng mẹ: "Ừ! Năm sau nếu Adam làm ăn khá hơn hay nếu ông lên chức"... "Trong lúc chờ đợi phải tiện tặn, tiện tặn, tiện tặn..."
Từ lâu, tôi quen thói keo kiệt của ba, hết cho là lạ lùng, càng ngày ông càng đam mê tiền bạc, tìm đủ mọi cách để khỏi chi ra. Mẹ tôi khổ sở rất nhiều vì thói ấy, bà phải chắt bóp từng ly, từng tí trong mọi việc tiêu pha. Tôi chắc mẹ tôi cũng như các bà nội trợ khác ưa mua sắm trong các nhà hàng lớn như Donaldson hay Bruce! Chao! Hàng bày trong đó mới hấp dẫn làm sao! Và tôi dám chắc nếu có đủ phương tiện, mẹ tôi là đầu bếp khéo nhất – trong vài dịp hiếm có, mẹ trổ tài làm bánh ngon kinh hồn – Tôi biết mẹ tôi thích dọn cho cả nhà những món ăn ngon lành.
Song luôn luôn, mở cái ví cũ mèm, đen chũi ra, lẩm nhẩm tính một lát, bà thở dài trở về với mấy món xúp lúa mạch cổ điển và sai tôi chạy qua quán mua một penny (1) xương (lần nào mẹ cũng dặn: "Nhớ bảo ông ấy chừa lại chút thịt, con nhé!") và ghé lại tiệm Logan mua thêm nửa penny vừa cà rốt vừa củ cải.
Tội nghiệp mẹ tôi: hôm thứ hai rồi, khi đánh rơi cái đèn dầu treo ngoài hành lang, mẹ đã bật khóc... Mà thôi! Tôi buồn ngủ quá đi!...
Một buổi tối, mẹ sai tôi đốt đèn ngoài hành lang. Tôi thấy dì Kate vừa về, trễ hơn thường lệ.
- Cháu đó hẳn? Robert? – Tôi biết dì hơi bối rối song giọng dì thân mật.
- Thưa dì vâng!
Trèo lên đốt đèn xong, tôi bước xuống ghế, dì nắm tay tôi bảo:
- Robert! Cháu ngoan lắm!
Tôi đỏ mặt sung sướng: Ít lâu nay dì rất dễ thương đối với tôi. Có vẻ ngập ngừng một chút, dì tiếp:
- Nghe này, Robert! Jamie nhất định mời dì đi hội chợ Ardfillan với anh ấy. Người đàng hoàng ai thèm đi như vậy chớ? Anh ấy cũng đồng ý với dì về điều này. Cho nên anh ấy... dì với anh ấy sẽ dắt cháu đi chung cho vui, nếu cháu thích...
Nếu? Tôi đã nghe kể những điều vui ở hội chợ Ardfillan, mỗi năm một lần nông dân các vùng lân cận đều đổ xô tới... Tôi thì thầm:
- Dì ơi! Cháu...
- Vậy là cháu bằng lòng, hử?
Dì âu yếm nắm chặt tay tôi và khi lên thang lầu dì báo cho tôi biết rằng Gavin vừa trở về, dì gặp nó ở sân ga.
Gavin trở về rồi? Thích quá: vậy là nó về sớm hơn dự định hai ngày. Vậy thì ngày mai tôi gặp nó rồi.
Gặp lại bạn thân, hội chợ Ardfillan, hai điều đó làm tôi tràn ngập vui sướng. Tôi hé cửa, nhìn bóng đêm thở mạnh. Đêm tối mịt, không một ánh sao nhưng làn gió nhẹ chứa chan hứa hẹn. Ôi! Đời mới đẹp làm sao!
--------------
(1) Penny : một xu Anh.
Hai đứa tôi còn tắm suối, lần đầu tôi tập bơi, đàn cá vàng kinh ngạc thấy người, lội nhanh để trốn, chạm cả vào chân chúng tôi. Tôi thích thú kêu to và hai đứa cười ròn rã. Vùng vẫy trong nước thật quả có ích: mọi ưu phiền của tôi như trôi tuột, như được rửa sạch.
Rồi chúng tôi chạy nhảy bằng thích và cuối cùng nằm dài lên cỏ, ngửa mặt nhìn trời, tận hưởng hạnh phúc. Vòm trời trong xanh, không khí tinh khiết, ấm áp, nắng vàng, cây lá xanh tươi và trong tôi bừng lên sức sống.
Có lẽ tôi đã sống như một kẻ ngoại đạo. Làn gió hè thổi tan những ý tưởng về Thượng Đế ra khỏi tâm trí, tôi chả hoài hơi lưu tâm đến những bưu thiếp bà gửi về. Tối tối, tôi chả còn e ngại bọn quỷ dữ nấp ở xó nhà chỉ lăm le ám hại linh hồn tôi, như lời bà. Vừa đặt lưng xuống giường là mắt tôi nặng chĩu ngay, có khi chỉ vừa kịp đọc vội, đọc vàng một câu kinh ngắn cho có lệ.
Nhưng không bao lâu, tôi hay tin là sắp phải xa Gavin: mỗi dịp hè ba nó thuê một trại mát vùng Perthshire, ở đó có thể săn bắn, câu cá (một điều xa xỉ mà sau này người ta sẽ trách ông). Gavin nghỉ hè tại đó, một vùng cao nguyên đầy cỏ dại và thơ mộng.
Chị Julia không ngớt lặp đi, lặp lại cho tôi biết rằng tôi có thể đến đó nghỉ hè với Gavin. Mà tôi, tôi cũng rất thích, song than ơi! Áo quần thảm hại quá, chưa kể phí tổn di chuyển bằng tàu hỏa và nhiều khó khăn khác về tài chánh khó nỗi vượt qua, vì vậy, dự định tốt đẹp ấy bị bóp chết ngạt từ trong trứng!
Hai đứa tôi chia tay ở sân ga, mắt mờ lệ. Chúng tôi nắm tay nhau thật chặt không muốn buông ra và hứa trung thành cùng là nhớ đến nhau luôn.
Trọn tháng ròng, tôi chỉ biết lang thang bên mấy ngôi nhà tranh có rào đầy bụi rậm. Gió thổi hun hút giữa lùm cây nghe như tiếng thở dài ảo não của đất đai đã cạn dần sinh lực.
Phần đông các gia đình khá giả ở Levenford đều đi nghỉ mát ở bờ bể. Thành phố đìu hiu vắng vẻ trở thành xa lạ đối với tôi, y như một thành phố bị quân ngoại xâm chiếm đóng.
Gavin vắng mặt nhưng đều đặn gửi thiệp về, giọng nó tràn ắp nồng nhiệt làm tôi càng nôn nả mong gặp nó.
Thế rồi, một buổi chiều tôi đi dạo trước khi vào làm một bài luận dài ngoằng về Marie-Stuart, nữ hoàng Tô Cách Lan, tôi lại gặp Jamie – anh vẫn có lệ chiều chiều đến ngồi trên thành tường thấp bao quanh vườn nhà tôi – quay lưng vào nhà. Chiếc khẩu cầm trên miệng, anh thổi lên một điệu nhạc rất lôi cuốn, tôi nghe mê nhưng không biết tên nên đặt là "điệu nhạc của anh Jamie" – Anh cứ điềm nhiên thổi trong lúc tôi lẳng lặng ngồi xuống bên cạnh. Chúng tôi cùng tận hưởng hơi mát truyền lên từ thảm cỏ vàng đẫm sương chiều, từ những cụm mây mù vây kín những mái tranh khô héo.
Cỡ bảy giờ, dì Kate đầu trần, hai tay thọc vào túi, cổ áo choàng mỏng mầu xám kéo cao lên, rời nhà đến thăm cô bạn. Dì làm như chỉ thấy có mình tôi. Còn Jamie? Anh cũng làm như không thấy dì, có điều dì càng đi xa, điệu nhạc càng to lên như đuổi theo sát gót. Tôi hiểu lờ mờ rằng đây chính là một dạ khúc Tô Cách Lan, chậm, dìu dặt, thấm thía...
Một hôm, cảnh đó tái diễn, và dì ngừng lại trước chúng tôi đột ngột, giọng dì nghiêm nghị:
- Robert! Cháu nên vào nhà thì hơn!
Tôi chưa kịp trả lời dì thì anh Jamie ngừng thổi kèn, đón lời:
- Kìa, thằng bé có làm gì bậy đâu?
Dì Kate trừng mắt nhìn anh Jamie, tia nhìn giận dữ, nhưng anh vẫn thản nhiên làm dì phải quay đi không biết nói gì khác nữa. Giọng lửng lơ, anh lại nói:
- Chào! Buổi chiều hôm nay trời đẹp làm sao!
- Chắc chắn trời sắp mưa!
Dì tôi trả đũa, Jamie vẫn tươi cười:
- Có thể lắm, nhưng hại gì, một cơn mưa nhỏ ấy mà!
- Anh giữ tôi lại để nói chuyện thời tiết đấy hẳn?
Giọng dì dấm dẳng, nhưng trong cái tranh tối tranh sáng của buổi chiều, tôi thấy dì đẹp ghê đi: thân hình cao, rắn chắc, chân thon, thẳng. Jamie lơ đãng đưa kèn lên miệng thổi vài tiếng rồi nói:
- Tôi nghĩ đây là một buổi chiều lý tưởng để... đi dạo...
- Hả? Đi dạo? Xin hỏi anh: đi dạo ở đâu?
- Ờ! Đâu mà không được...
- Dễ nghe há? Tôi không định đi dạo, tôi đi thăm bạn tôi, anh hiểu chưa?
Dì sắp quay đi, tức thì Jamie nhảy phóc xuống, phủi quần, nói mau:
- Tôi cũng đi đường ấy. Tôi xin phép được đưa cô đi!
Dì Kate có vẻ bối rối, không nói năng gì. Nhưng tôi có cảm tưởng là khi hai người sóng đôi được một đoạn thì bóng tối đã che mất đôi chân cong của Jamie! Phải! Quan tâm làm chi đến đôi chân? Đáng kể là tấm lòng kia chứ!
Nán lại một chút chờ họ đi khuất, tôi vào nhà, mở cái cặp ra, soạn sách vở làm bài. Nơi bàn ăn, cậu Murdoch có vẻ khá chăm chỉ, nhưng tôi ngạc nhiên thấy cậu không hề lật sách. Cậu gãi đầu liên hồi, gầu rơi đầy trang giấy. Tôi tự hỏi cậu có thực sự học không vì vài bận tôi thấy giữa các trang sách của cậu thò ra một cuốn mẫu hạt và cách trồng tỉa, bằng chứng hiển nhiên về sự ham thích trồng trọt của cậu tôi.
Suốt ngày, cậu ngồi học một cách miễn cưỡng, day trở không ngừng, đứng lên rồi ngồi xuống, khi thì chạy đến trước gương nặn mấy cái mụn trứng cá, khi thì lẻn ra vườn, lang thang như một tâm hồn đau khổ. Đôi lúc vô tình cậu hé cho tôi thấy rõ tư tưởng thầm kín của cậu:
- Robert này, mày biết không: bên Hòa Lan họ trồng từng mẫu Uất Kim Hương cơ đây! Tưởng tượng coi: từng mẫu Uất Kim Hương?
Tối tối, ba tôi ngồi ngay sau lưng cậu, im lặng và kiên nhẫn như một bác đánh xe ngựa. Sẽ có cuộc thi tuyển vào Quốc gia Bưu Điện tháng tới. Ngày ấy càng gần, ba càng nắm chặt dây cương hơn, tôi dám chắc ba không ngần ngại gì mà không dùng roi, nếu thấy cần và con ngựa khốn khổ chắc bạn đã rõ: không ai khác hơn là cậu Murdoch của tôi!
Ba nhất định cậu tôi phải đậu, không chỉ để bảo đảm tương lai của cậu mà còn để thỏa mãn tính kiêu hãnh của ba. Ba đã không thành công và được yêu vì trong xã hội, ông cần trả thù, ông ao ước hết lòng được báo tin cho mọi người, từ ông Thị trưởng, luật sư Mc Kellar, bác sĩ Lair, cho xếp ông, bằng giọng hãnh diện rằng chính con trai thứ của ông đã trúng tuyển vào Quốc gia Bưu Điện!
Tôi sẽ sàng đến ngồi gần cậu, hết sức sẽ sàng để tránh làm rộn người đang học thi. Mẹ đã cẩn thận bao sách tôi bằng loại giấy nâu dày để giữ cho lâu bền – ở nhà này không được làm hư hại bất cứ một vật gì – Ông tôi thì đề tên tôi lên ngoài bìa bằng nét chữ rắn rỏi và rất đẹp. (Tôi đã lên lớp ba tháng nay rồi. Thầy giáo mới, ông Singer hói đầu, cử chỉ từ tốn, chậm chạp và rất thứ tự, tỏ vẻ ân cần đối với tôi. Tôi tấn tới rõ ràng, tỏ ra có năng khiếu đặc biệt). Nhưng tôi không bao giờ kể chuyện đó ra với ba tôi, vì tôi biết ông không cần quan tâm đến. Trong khi soạn cặp, vô tình tôi làm rơi tờ ghi phiếu điểm thi tam cá nguyệt đệ nhất xuống gạch làm ba chú ý, tôi lúng túng đỏ mặt lên làm ba thêm nghi, ra hiệu đưa ông xem. Tờ giấy ghi phiếu điểm mầu vàng nhạt, khá dày, do chính tay thầy Ginger ghi chép: tôi được nhất về Toán, Địa lý, Sử ký, Anh văn, Pháp văn, nhì môn Vẽ và được xếp hạng nhất ở lớp.
Xem xong, ba có vẻ ngạc nhiên, nhìn tôi dò xét, như... nghi ngờ. Mà làm sao không tin chớ: chữ ký và chữ viết đều do tay thầy tôi. Song tôi ngạc nhiên thấy thay vì hài lòng, ba tôi trả tờ giấy với sắc mặt không vui. Tôi khổ sở chúi mũi vào trang sách.
Im lặng. Chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ, tiếng lật sách, tiếng cựa mình trong ghế của ba kêu lên ken két. Quên, còn tiếng kim đan của mẹ nữa chớ: mẹ đang đan khăn choàng cổ cho cậu Adam. Luôn luôn đan khăn choàng cho cậu Adam! Chín giờ tối, dì tôi về và đi thẳng lên lầu sau khi chào cha mẹ. Chúa ơi! Tôi có lầm không: hình như dì hát khe khẽ bản nhạc của Jamie?
Chín rưỡi, mẹ nhìn tôi ra hiệu, tức thì tôi dẹp sách vở hết sức cẩn thận vì nơm nớp lo sợ đụng chạm bàn ghế, ba sẽ nổi giận lên, rồi tôi chui vào phía sau màn, cái góc của tôi.
Chúa ơi! Tôi đói quá đi! Sao mà y như chưa ăn chiều vậy! Ước gì có mẩu bánh mì nhỉ! Tôi biết mẹ không nỡ từ chối với tôi, nhưng làm sao xin được giữa lúc này? Nén cơn đói, tôi thay áo và quỳ gối đọc Kinh, đoạn lên giường.
Đôi khi, tôi thao thức tận lúc cậu đi ngủ. Cũng là lúc ba mẹ thì thầm bàn tính chuyện nhà. Tôi nghe thoang thoáng tiếng được, tiếng mất. Sở vệ sinh Ardfillan đòi ba nộp bản tường trình về việc hốt rác (Trời ơi! Tưởng gì lạ!). Hôm nay bà mua thịt bò hết bao nhiêu?... Đắt quá vậy? (Hoài! Lúc nào ông cũng chê mẹ tôi mua đắt!). Giọng ông cao hơn: "Năm nay bãi bỏ chuyện nghỉ hè ở bãi bể đi, để tiền gởi vào hội bất động sản, tốt hơn". Tiếng mẹ: "Ừ! Năm sau nếu Adam làm ăn khá hơn hay nếu ông lên chức"... "Trong lúc chờ đợi phải tiện tặn, tiện tặn, tiện tặn..."
Từ lâu, tôi quen thói keo kiệt của ba, hết cho là lạ lùng, càng ngày ông càng đam mê tiền bạc, tìm đủ mọi cách để khỏi chi ra. Mẹ tôi khổ sở rất nhiều vì thói ấy, bà phải chắt bóp từng ly, từng tí trong mọi việc tiêu pha. Tôi chắc mẹ tôi cũng như các bà nội trợ khác ưa mua sắm trong các nhà hàng lớn như Donaldson hay Bruce! Chao! Hàng bày trong đó mới hấp dẫn làm sao! Và tôi dám chắc nếu có đủ phương tiện, mẹ tôi là đầu bếp khéo nhất – trong vài dịp hiếm có, mẹ trổ tài làm bánh ngon kinh hồn – Tôi biết mẹ tôi thích dọn cho cả nhà những món ăn ngon lành.
Song luôn luôn, mở cái ví cũ mèm, đen chũi ra, lẩm nhẩm tính một lát, bà thở dài trở về với mấy món xúp lúa mạch cổ điển và sai tôi chạy qua quán mua một penny (1) xương (lần nào mẹ cũng dặn: "Nhớ bảo ông ấy chừa lại chút thịt, con nhé!") và ghé lại tiệm Logan mua thêm nửa penny vừa cà rốt vừa củ cải.
Tội nghiệp mẹ tôi: hôm thứ hai rồi, khi đánh rơi cái đèn dầu treo ngoài hành lang, mẹ đã bật khóc... Mà thôi! Tôi buồn ngủ quá đi!...
Một buổi tối, mẹ sai tôi đốt đèn ngoài hành lang. Tôi thấy dì Kate vừa về, trễ hơn thường lệ.
- Cháu đó hẳn? Robert? – Tôi biết dì hơi bối rối song giọng dì thân mật.
- Thưa dì vâng!
Trèo lên đốt đèn xong, tôi bước xuống ghế, dì nắm tay tôi bảo:
- Robert! Cháu ngoan lắm!
Tôi đỏ mặt sung sướng: Ít lâu nay dì rất dễ thương đối với tôi. Có vẻ ngập ngừng một chút, dì tiếp:
- Nghe này, Robert! Jamie nhất định mời dì đi hội chợ Ardfillan với anh ấy. Người đàng hoàng ai thèm đi như vậy chớ? Anh ấy cũng đồng ý với dì về điều này. Cho nên anh ấy... dì với anh ấy sẽ dắt cháu đi chung cho vui, nếu cháu thích...
Nếu? Tôi đã nghe kể những điều vui ở hội chợ Ardfillan, mỗi năm một lần nông dân các vùng lân cận đều đổ xô tới... Tôi thì thầm:
- Dì ơi! Cháu...
- Vậy là cháu bằng lòng, hử?
Dì âu yếm nắm chặt tay tôi và khi lên thang lầu dì báo cho tôi biết rằng Gavin vừa trở về, dì gặp nó ở sân ga.
Gavin trở về rồi? Thích quá: vậy là nó về sớm hơn dự định hai ngày. Vậy thì ngày mai tôi gặp nó rồi.
Gặp lại bạn thân, hội chợ Ardfillan, hai điều đó làm tôi tràn ngập vui sướng. Tôi hé cửa, nhìn bóng đêm thở mạnh. Đêm tối mịt, không một ánh sao nhưng làn gió nhẹ chứa chan hứa hẹn. Ôi! Đời mới đẹp làm sao!
--------------
(1) Penny : một xu Anh.
______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG MƯỜI MỘT