Bác Cả Lý nhìn vào gương lần
chót. Chiếc khăn đóng xếp cẩn thận theo hình chữ nhất ngay ngắn trên đầu. Những
sợi tóc ngày thưởng lởm chởm, dựng đứng vì cắt vụng nay đã được vuốt nước lã
nằm bẹp. Chiếc áo the đen còn nguyên lằn xếp kỹ. Và trên cánh tay phải cong
cong, một chiếc dù đen cán bóng móc ngược. Bác Cả Lý trông thấy mình trịnh
trọng hẳn lên. Một năm chỉ một lần nầy thôi, Tết nhất mà, áo rách phải giữ lấy
lề chứ. Bác nghĩ vậy nên tỏ vẻ bằng lòng mình lắm. Bác tằng hắng một tiếng nhỏ,
sửa giọng thật vui vẻ, nói vói vào bên trong:
- Bà nó trông nhà nhé, tôi
đi mở hàng đầu năm cho kịp giờ tốt đây.
Tiếng bác Cả Lý gái vọng ra:
- Vâng, ông nó cứ đi đi, còn
sớm chán, nhớ ngắt ít cành lộc về lấy hên nhé.
Bác Cả Lý cười nhẹ, bước ra
khỏi cửa. Bác hoàn toàn vui vẻ, chỉ hơi khó chịu vì đôi guốc quai da mới nguyên
làm bác đau chân. Nhưng cũng chỉ một tí thôi, lúc nãy, bác đã cẩn thận rửa guốc
bằng nước lã nên chắc không đến nỗi nào. Bác Cả Lý vén nhẹ thân áo trước bước
ra cổng. Vài tiếng chó sủa vu vơ. Trời vẫn chưa sáng hẳn. Hơi lạnh phủ trong
màn sương lam đục phả qua lần áo lương mỏng lành lạnh. Những cành lá đẫm ướt cọ
quẹt theo bước chân. Bác Cả Lý nghe rõ tiếng dẫm chân trên cỏ của mình đến nỗi
nhiều lúc bác cứ ngỡ chung quanh xóm chỉ có một mình bác thức dậy đi đạp đất
đầu năm. Nhưng không đầy một phút sau, bác đã nghe những tiếng pháo tống rời
rạc đàng xa mở đầu cho nhiều tràng pháo khác dài không ngớt. Thôn xóm như bừng
thức dậy. Ngày mồng một bây giờ mới thực sự bắt đầu. Sương tan dần, lũy tre xa
đã hiện rõ hình dáng dịu nhiểu của mình. Những tấm liếp được đẩy dạt hoặc chống
cao hẳn lên. Thấp thoáng hương trầm và đèn nến. Đã có tiếng trẻ reo cười. Bên
bờ ruộng đối diện, con đường mòn cuối xóm, sau hàng rào tre thưa, bóng người,
bước chân đi nghe rộn rã.
Bác Cả Lý bước mau hơn chút
nữa. Bác không muốn mình là kẻ đến đình làng sau mọi người. Năm nào bác cũng là
người thắp nén hương đầu năm vào chiếc đỉnh lư bằng đồng bóng loáng. Và chỉ khi
tuần hương thứ nhất vừa hết, các hương chức trong làng mới lục tục kéo đến. Lúc
đó, bác Cả Lý lại xách ô ra về. Ghé một chút sau đình hái một nhánh lộc non
xanh. Vòng qua phía xóm dưới đạp đất nhà đứa cháu họ. Đứa cháu họ chỉ thích
chính bác Cả Lý đạp đất nhà nó thôi. Khoảng 29 Tết, nó đã lễ mễ bưng qua một
chục trứng khẩn khoản mời bác đến nhà mở hàng nhà nó trước. Chả vì năm nào bác
Cả Lý đạp đất thì nhà nó đều buôn may bán đắt. Nhưng bác Cả Lý thì qua đạp đất
nhà nó không phải vì chục trứng gà tươi ngon hôm 29 Tết. Cũng không phải bác thích
thú hoặc nể nang gì đứa cháu họ. Tính bác hiền thì hiền, nhưng không phải ai
cũng dễ dàng xỏ mũi bác lôi đi. Bác chỉ qua nhà đứa cháu vì những thằng con dễ
thương của nó. Bác chưa có cháu nội ngoại gì nên thương những đứa trẻ ấy quá.
Những đứa trẻ mới thông minh, liếng thoắng làm sao. Tuy học lớp nhì, lớp ba
trường làng mà chúng thông hiểu rành rẽ nhiều chuyện quá. Chuyện khoa học,
chuyện vệ sinh, địa lý. Từ thuở thiếu thời, bác Cả Lý chỉ toàn đọc sách thánh
hiền. Văn chương bác tạm gọi là hách nhất nhì làng, nhưng cái điều nước nôi khó
hiểu như những bài học của tụi nhỏ thì quả bác chịu thua. Tụi nhỏ hỏi bác nhiều
chuyện thì cũng tình cờ cho bác thông hiểu nhiều chuyện. Bác thích là vì vậy.
Cái đỉnh dù nhọn lập cập
theo bước chân. Bác Cả Lý ngần ngại không hiểu mình có nên giương dù lên không.
Bác nhìn chung quanh. Một chút ráng đỏ hơi ửng hồng ở đằng Đông. Sương la đà
trên mặt ruộng. Vài tà áo mới lấp ló trong vườn. cả bầu trời và cả mọi người
như đã sẵn sàng chào đón buổi bình minh đầu tiên của một năm mới. Bác chắc lưỡi
trở dù cầm ngang. Theo bác thì không được lịch sự cho lắm với kiểu cầm dù nầy,
nhưng đỡ tránh được nạn bị đầu dù nhọn đánh vào chân. Đình làng lấp ló đầu xa
ẩn sau tàn cây đa to rậm lá. Mái cong cong xuôi xuống rồi nẩy ngược ngạo nghễ
tương phản cái ngọn cong yểu điệu của cây nêu Tết mà chú Mõ đã trồng trước sân
đình từ mấy hôm trước. Đường dẫn đến đình lát gạch sạch bóng. Tiếng guốc nện
trên nền gạch nghe vui lạ. Bác Cả Lý mỉm cười, đi chậm lại nhìn đình. Ngôi đình
thân thuộc với bác quá đỗi. Bác Cả tưởng chừng như mình đã ăn, ở, ngủ trong đó.
Mà bác nghĩ vậy cũng phải. Có xó xỉnh nào trong đình mà bác không biết, lằn
gạch vỡ, hòn đá lệch, tượng thần làng, chiếc đỉnh đồng, bát chân nhang to tướng
bị sứt một góc miệng, hai chân đèn hình con cò đứng một chân do chính bác tự
tay mua về bày biện, tất cả ghi dấu trong lòng bác, in đậm nét. Bác yêu cái
đình cũ kỹ ấy như bác thương mến ngọn lúa, bông cau, tấc đất vàng rỡ phù sa. Cả
quê hương, cả tấm lòng yêu nước cao xa nào đó có trong lòng bác thì cũng chỉ
lớn bằng tấm lòng bác yêu ngôi đình làng bác là cùng. Bởi đó là quê hương hiện
hữu thật nhất, gần nhất, tượng trưng nhất. Bác còn nhớ hai năm về trước, tỉnh
đã phó người về cho tiền bạc để làng tu bổ lại đình. Các hương chức trong làng
muốn phá ngôi đình ấy để xây lại ngôi đình mới, theo kiểu mới. Bác là người độc
nhất phản đối đến kỳ cùng. Bác nói hăng say và hùng hổ vì tức giận, vì lo sợ.
Bác làm dữ đến nỗi sau rốt mọi người đều đồng ý là chỉ tu bổ lại thôi. Về đến
nhà, trong niềm vui sướng, hân hoan, bình tĩnh lại bác mới lấy làm lạ là tại
sao mọi người lại nghe một cựu xã lý già nua như bác. Bác tự tìm lấy cho mình
một lý luận chặt chẽ là chắc ai ai cũng mến ngôi đình nhưng không nói ra, nên
khi bác nói thì ai cũng đồng ý cả. Lý luận mơ hồ ấy khiến bác tự thấy mình có
trách nhiệm hẳn lên với ngôi đình làng.
Bác Cả Lý bước hẳn vào đình.
Chiếc lư đồng lấp loáng trong ánh sáng đã nhạt của hai cây đèn cầy sắp lụn vì
thắp suốt đêm. Lư trầm chưa được đốt lại nhưng hương thơm vẫn vướng vít, lẫn mùi
thơm của hoa quả chất thành đồi trên chiếc mâm đồng có ba chân. Bác Cả Lý vòng
đằng sau bàn thờ lấy bó nhang và hai cây đèn cầy lớn. Bác thắp đèn cầy lên, đốt
nhang cắm vào bát hương. Hai cây đèn cầy màu đỏ sáng rực lên lung linh rực rỡ.
Khói nhang, khói trầm bay nghi ngút. Những đóa vạn thọ vàng, hoa trang trắng,
lá xanh, cắm trong cái độc bình men xanh có chạm hình hai con rồng đang múa
trên mây. Cạnh đó là một chồng bánh chưng gói lá dong vuông vức đối diện với
cơi mứt ngũ sắc. Tất cả khí oai linh như tích tụ lại trong gian đình làng nhỏ.
Bác Cả Lý trang trọng cầm lấy cái dùi trống bọc nỉ khẽ đánh nhẹ lên mặt chiếc
trống làng to tướng treo ở góc trong. Tiếng trống lúc đầu lơi nhẹ rồi dập dồn
lên như thúc giục. Trong tiếng trống vang vang, bác Cả Lý nghe có tiếng lao xao
trước sân đình. Các hương chức bô lão đã đến rồi. Bác Cả Lý lơi tay dần để rồi
chấm dứt bằng ba tiếng trống ngắn gọn. Bác để dùi trống vào chỗ cũ vừa vặn đón
những người đến đình lễ đầu năm.
- Chào bác Cả Lý năm mới.
Chào… Chào… Chào… Chúc bác Cả Lý năm nay được mọi điều như ý. Chà, năm nay bác
Cả đến sớm hơn mọi năm. Bác Cả đã phát tài gì chưa…
Bác Cả Lý chắp hai tay trả
lễ trước những câu chào hỏi rộn rịp. Bác quay lại định xách cái ô rời đình để
đi đạp đất nhà đứa cháu họ như đã hứa. Nhưng cụ lão Nghinh, già nhất làng, đã
nắm tay bác kéo lại cười nói:
- Năm nay, bác Cả không được
về sớm đâu nhé. Lễ thần xong, bác phải nhắm với tôi chút rượu đầu năm đấy.
Bác Cả cười thật tươi:
- Năm mới năm me, cụ tha cho
nhà cháu. Lại còn phải mở hàng để cầu tài nữa chứ. Hẹn cụ tí nữa, tôi sẽ đến
tận nhà chúc Tết.
- Nếu vậy thì thôi. Nhưng
bác Cả cũng phải đốt giúp tôi phong pháo mừng này.
Bác Cả nhanh nhẩu:
- Vâng, tôi vui lòng lắm.
Chà, pháo cụ mua ở đâu mà tốt thế nhỉ?
Ông Lý Bằng đỡ lời:
- Ấy, của thầy giáo Thơ tặng
làng đấy. Nghe đâu thầy mua tận trên tỉnh mới được loại pháo tốt. Chắc kêu lắm.
Bác Cả Lý đem phong pháo cột
vào cành cây mai trắng nở đầy hoa trước sân đền, trong lúc mọi người lần lượt
vào lễ. Những người trong làng cũng lần lần kéo đến. Câu chúc tụng, tiếng cười
đùa râm ran khắp nơi. Bác Cả châm ngòi pháo và né sang một bên. Tạch, đùng,
tạch, đùng… Pháo nổ kêu to vang động. Xác pháo đỏ tươi lẫn trong làn khói và
tia chớp vàng rực. Vài cánh mai trắng lả tả bay theo. Trẻ con vỗ tay vui cười.
Các cụ tụ tập cả ra sân đền. Trời xanh ngát, và gió thì lành lạnh. Những tia
nắng đầu năm tràn lan khắp nơi. Bác Cả Lý nhẹ nhàng len ra cổng đình. Lòng bác
vui sướng nhẹ nhàng. Bác hái vội một cành lộc đầy mầm lá xanh non mướt rượt.
Đôi guốc không còn làm bác khó chịu nữa. Bác giương chiếc dù đen che nắng.
Trên khắp đường làng đều
nườm nượp người đi. Thôi thì quần là, áo lụa, đủ màu. Tiếng chúc Tết trong nhà,
tiếng chào mời ngoài sân. Trẻ con tụm năm, tụm ba đánh đáo, đánh xóc. Pháo dây
thì ngoại trừ vài nhà đốt hồi giao thừa và sáng sớm, còn thì toàn là pháo lẻ.
Tì tà tì tạch đốt mãi. Thỉnh thoảng, bác Cả Lý lại phải dừng lại đứng nép bên
đường để tránh những chiếc lon giả pháo bắn tung từ trên cao rớt xuống. Nếu
đúng vào ngày thường thời lũ trẻ chết với bác, bác xách gậy đuổi chạy nhầu.
Nhưng ngày Tết nhứt, bác Cả thấy lòng mình dễ dãi quá. Lâu lâu bác chỉ nói với
lũ trẻ bằng một giọng như khuyến khích:
- Ấy ấy, để bác đi đã tụi
bây. Thư đã nhé… rồi, đốt đi.
Mỗi lần như thế, bác Cả lại
nhận được một tràng cười nắc nẻ, chen lẫn lời chào của những đứa hay đến nhà
bác xin ổi, xin na.
Đến cuối làng, bác Cả rẽ
sang tay phải. Cái ngõ hẹp trông chừng sạch sẽ hơn ngày thường. Hàng cây rào
cũng được cắt xén cẩn thận. Bác Cả Lý nghĩ thầm:
- Chà, thằng nầy coi bộ phát
tài dữ sao mà sửa soạn ăn Tết đàng hoàng thế nầy?
Bác dừng lại trước cổng căn
nhà ngay đầu ngõ. Cửa vào còn đóng chặt. ý chừng còn đợi bác đây mà. Bác Cả Lý
gập chiếc dù lại máng vào tay. Một tay cầm nhành lộc sai lá, một tay tì vào cái
then gỗ mở cổng. Con Vện nghe động chạy ra, gừ gừ ngoắt đuôi mừng rỡ. Theo sau
là đứa cháu họ chỉnh tề trong bộ bà ba mới tinh, vừa đi vừa cất giọng vồn vã:
- Chào bác năm mới ạ. Mời
bác vào nhà. Để cháu mở cổng.
- Thế nào, đã đi mở hàng đâu
chưa?
Hai cánh cửa bằng tre được
mở rộng. Bác Cả đi vào đĩnh đạc.
- Dạ cháu chưa dám đi đâu
cả. Vả lại còn phải chờ bác đến đạp đất nữa.
Rồi anh đi vào nhà kêu to
lên:
- U nó ơi, có bác cả đến
đấy. Lên mà chào bác năm mới lấy may đi.
Đứa cháu dâu từ dưới nhà đi
lên tay bưng một khay đầy bánh chưng bóc sẵn có dưa hành, thịt mỡ.
- Chào bác năm mới, chúng
cháu chúc bác sang năm được vạn sự như ý, sức khỏe dồi dào.
Bác Cả Lý cười cười:
- Ừ, tao cũng chúc tụi bây
được may mắn đủ điều, thêm con thêm của.
Chị Ba, (đứa cháu dâu) dẫy
nẩy:
- Ấy, thêm của thì cháu nhận
chứ thêm con thì bác cho khoan đã. Năm đứa ở nhà nuôi cũng đủ mệt rồi.
Bác Cả xoa tay cười xòa:
- Lo gì, trời sanh voi, sanh
cỏ chứ. Thế mấy đứa nhỏ đâu rồi, lên cả đây ông mừng tuổi cho nào!
- Mời bác ngồi chơi xơi rượu
đã. Bác đưa cành lộc cháu cất hộ, tí nữa thằng Liễn nó mang qua nhà cho bác…
Tụi nhỏ nó chơi ngoài sân sau, để u nó kêu lên.
Không đầy một giây sau,
trước mặt bác Cả lố nhố năm đứa trẻ quần áo giống nhau, mới tinh. Chúng thấy
bác đã reo lên mừng rỡ:
- Lạy ông ạ. Lạy ông năm mới
ạ. Ông mừng tuổi cháu.
Bác Cả bế đứa nhỏ nhất lên
lòng. Một tay vén áo lấy ra mấy tờ giấy bạc mới.
- Ông mừng tuổi mấy đứa
nghe. Liễn, đem chia đều cho các em.
Anh Ba đỡ lời con:
- Cám ơn ông đi mấy đứa.
Thôi xuống nhà chơi để ông uống rượu với bố tí nào.
Bác Cả xua tay:
- Ấy, cứ để mấy đứa nó đứng
đấy. Tao nói chuyện với bố cháu rồi sẽ kể chuyện năm mới cho mà nghe.
Bác Cả nhấm một hớp rượu
nếp, chăm chắp miệng thích thú:
- Bụng đói mà cứ dùng của
nầy thì tha hồ say tít cung thang nhé.
Anh Ba mỉm cười:
- Tết nhất mà bác. Bác về
nhà đóng cửa nằm khèo ra ngủ một giấc hai ba ngày cũng được mà.
Bác Cả ngẩng đầu lên. Miếng
bánh chưng đang ngậm được nuốt vội vàng.
- A, thằng nầy nói lạ. Tết
nhất đâu phải là lúc mình nằm nhà ngủ vùi, không biết đến bà con, làng xóm. Thế
thì Tết để làm gì? Tết để cho nhà nhà sum họp, con cháu vui vẻ, làng xóm láng
giềng cởi mở thân thiết nhau, chứ nói như tụi bây thì chỉ làm uổng cái Tết.
- Bác Cả nói vậy, chứ đời
bây giờ mà, mình vui khỏe cho mình đã rồi mới lo chung quanh. Cháu thấy người
xưa bày đặt nhiều chuyện đâm ra Tết đến là lo lắng mệt mỏi không đâu.
Bác Cả Lý im lặng một giây.
Bác nói, giọng hơi buồn:
- Tụi bây thường nghĩ vậy
nên càng qua năm tao càng thấy cái Tết mất đi phần nào thi vị. Nhiều cổ tục đẹp
đẽ cứ mai một lần lần. Tụi bây ham theo mới, thích chuyện vui mà quên hết ý
nghĩa của ngày Tết. làng này, không khéo lúc tụi già già như tao chết đi thì
chắc cũng như làng bên quá. Đình làng không ai chăm sóc. Thăm viếng nhau cũng
hạn chế. Tất cả chỉ lo vui cho mình, cho riêng mình mà quên hết cái phong vị
đặc sắc của nước mình.
- Bác nói vậy chớ đến nỗi
nào.
Bác Cả lắc đầu:
- Đó là tại mầy chưa biết đó
thôi chớ tao đã gần 60 tuổi đầu rồi, tao đã chứng kiến từng bước đổi thay. Tết
bây giờ không bằng một phần mười cái Tết ngày tao còn bé. Ấm cúng biết bao và
thanh bình biết bao. Càng nói tao càng nhớ đến xót xa cả dạ.
Anh Ba ngồi yên lặng. Ngẫm
nghĩ anh cũng thấy đúng. Anh nhớ lại hồi còn nhỏ. Nội việc sửa soạn cho nồi
bánh chưng ngày Tết cũng là niềm vui bất tận rồi. Bây giờ anh không tìm được
cái thú vị cũ mà anh không hề để ý.
Lũ trẻ nhà anh chắc không
bao giờ còn được hưởng cái thú ngày hội, các cuộc thi đua tưng bừng đặc biệt
ngày Tết. Chiến tranh mấp mé ở đâu đó. Anh chỉ mới nghe mà chưa thấy. Ảnh hưởng
của ai đó đô hộ thì cũng chỉ ở những làng quan viên dốt nát, kênh kiệu nịnh nọt
quan tỉnh. Còn làng anh đã từng nổi tiếng văn học một thời nên trên làng dưới
nước đều thuận hòa. Thế mà các cuộc vui cũng biến mất lần lần, lặng lẽ mà không
ai để ý, khêu lại. Vài cổ tục đẹp đẽ tuy dềnh dàng cũng lui gót. Lui gót từ
từng nhà, từng xóm.
Anh nhìn lên, gượng vui lại:
- Thôi bác à. Bác nói đúng
lắm. Ngày Tết bác cũng nên dùng qua với cháu tí mứt gừng cho ấm bụng. Có trà
sen nữa, cháu mua tận chợ huyện nhân chuyến hàng cuối năm đó.
Bác Cả Lý cũng đổi giọng
tươi cười:
- Ừ tốt lắm, nhưng tao phải
ăn xong cái bánh chưng đã chứ. Ủa, mầy không có bánh giầy à? Tết sang năm nếu
có làm bánh chưng thì phải có bánh giầy nữa nghe. Có đất mà chẳng có trời thì
tội lắm.
Tiếng chó sủa ngoài sân.
Tiếng lao xao chào khách của chị Ba. Bác Cả nhìn ra ngoài. Có khách tới. Bác Cả
đứng dậy nói với cháu:
- Tao ở đây chơi với mấy đứa
nhỏ tí nữa. Cháu cứ tiếp khách đi. Thằng Liễn đâu rồi đi với ông ra thăm vườn
thử nào.
Anh Ba gọi vói thằng Liễn.
Hai ba đứa chạy vội ra dắt tay bác Cả ra sau nhà. Chút rượu nếp uống lúc nãy
làm căng mạch máu. Hơi ấm tỏa khắp người. Bác Cả không còn thấy lạnh. Bác cởi
chiếc áo the đen máng lên cây đinh trên cột.
Vườn cây xanh lơ rực rỡ dưới
ánh nắng trong như lọc. Những đóa cúc vàng lao xao trong gió. Vườn cải đã trổ
hoa, thân vươn cao. Càng cao, cành lá càng choắt lại để tận cùng bởi các ché
hoa nhỏ li ti vàng mướt. Vài chậu thược dược cũng không chịu kém phần, hoa nặng
chĩu những cánh, phù to, cánh hoa mướt rượt như tấm áo nhung đỏ tuyệt đẹp. Mấy
ông cháu dẫn nhau chen vào vườn.
Hàng chục chú bướm nhớn nhác
rời chỗ ẩn rập rờn bay tung. Bác Cả dừng bước trước một chậu kiểng uốn theo
hình con Rồng. Đó là công trình của bác hồi mùa hạ năm ngoái. Bác đã đánh lưng
trần, loay hoay từ sáng đến tối mịt để uốn thân cây ngâu non thành hình con
Rồng. Con Rồng đến hôm nay đã lớn và cũng theo khuôn phép lắm rồi. Vài nhánh
non mới đâm ra nhưng cũng không làm hại gì đến hình dáng cố định của nó cả.
Thằng Liễn đứng bên cạnh bỗng chợt níu áo bác Cả hỏi:
- Ông ơi, tại sao ông không
uốn thành hình người ta hoặc con chó con mèo mà lại uốn hình con gì gì ấy?
- Ờ, ông uốn hình con Rồng.
Con Rồng tượng trưng cho tổ tiên của mình đó. Dân Việt Nam là con Rồng cháu Tiên mà.
- Con của Lạc Long Quân và
Âu Cơ chớ ông.
Bác Cả xoa đầu cháu rồi nói:
- Thì cũng như nhau mà cháu.
Tục truyền Lạc Long Quân là con Rồng. Âu Cơ là cháu Tiên. Nhưng thật ra đó
giống như chuyện cổ tích mà thôi, còn sự thật mà nói thì dân tộc ta bản tính
quật cường, mạnh mẽ như Rồng, dịu dàng, thuần hậu, đẹp đẽ như Tiên, nên mới có
chuyện ví von đó.
Thằng Liễn nghĩ ngợi giây
lâu rồi nói:
- Con học trong sách thấy
nói người Việt có nguồn gốc của giống dân In-đô-nê-diên, theo sông Hồng lan
tràn đến phương nam, lập quốc mà thành. Có phải vậy không ông?
Bác Cả gật gù:
- Điều đó mới quá, ông không
rõ, nhưng ông nghĩ là thật ra chưa có gì là chắc chắn cả.
Mấy ông cháu lại tiếp tục
đến thăm vườn cúc ở tận đằng sau nhà, nơi mà những cây đậu đũa đang quấn quít
theo hai vòng tre chạc chân làm thành hình tháp. Lá xanh mơn mởn phô những hoa
nhỏ, cánh tinh khiết trắng ngần.
Nơi ấy giáp mí với khu vườn
nhà cụ Đồ. Tiếng cụ Đồ oang oang cười nói làm mấy ông cháu ngẩn người nhìn
sang. Liễn đã thấy được sự lạ, nó hỏi bác Cả:
- Ông ơi, nhà cụ Đồ có vẽ
bùa nữa.
Bác Cả Lý bật cười:
- Đâu nào, cái cụ Đồ năm nay
lẩm cẩm thật.
Bác ghé sát người vào hàng rào
thưa nhìn sang:
- Không phải đâu cháu ơi,
mầy nhìn lộn rồi, câu đối Tết của cụ Đồ đấy.
Liễn ngạc nhiên nhìn bác Cả.
Nó không hiểu câu đối là thế nào.
- Ông ơi, câu đối là gì hả
ông? Sao thầy giáo cháu chưa lần nào dạy cho chúng cháu.
- Hồi ông còn nhỏ như tụi
cháu, học xong Tứ Thư Ngũ Kinh là đã rành rẽ đặt câu đối lắm. Thật ra câu đối
không có gì là khó khăn. Đó chỉ là hai câu gọi là vế. Hai câu này thường đối
nhau ở từng chữ một, hoặc là đối nghĩa với nhau. Ông lấy ví dụ cho dễ hiểu, như
là câu:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối
đỏ
Nêu cao, tràng pháo, bánh
chưng xanh.”
Liễn ngẫm nghĩ:
- Nhưng cháu vẫn chưa hiểu
rõ lắm.
Bác Cả cười tươi như hoa.
Bác đang thú vị khi kể lại những thú vui thanh nhã trong làng nho. Bác chẫm rãi
nói tiếp:
- Nôm na là hai câu đó, câu
dưới phải đối với câu trên. Câu trên dùng chữ theo thứ tự là danh từ, động từ
chẳng hạn thì câu dưới cũng phải là những tiếng danh từ, động từ theo đúng thứ
tự đó. Danh từ chỉ sự vật ở câu trên, thì câu dưới cũng phải là danh từ chỉ sự
vật. Tĩnh từ chỉ màu sắc thì ở dưới cũng vậy. Còn muốn hay hơn nữa thì vừa đối
chữ lại vừa đối nghĩa, ví dụ như chữ Hắc nghĩa là đen, thì đối lại là Bạch có
nghĩa là trắng.
Liễn reo lên:
- Cháu hiểu rồi. Hay thật.
Cháu thích làm được câu đối, để nếu Tết cháu sẽ viết treo khắp nhà.
Bác Cả nhìn cháu thấy lòng
ấm lại. Bác nghĩ : giống dân Việt thật trữ tình, ngay cả đến những đứa trẻ.
- Ông ơi, thế có câu đối nào
vui vui không?
- Nhiều lắm, những giai
thoại về câu đối thì kể cũng không hết. Vừa vui, vừa tế nhị, vừa sâu sắc. Để
ông kể cho các cháu nghe một giai thoại vui về câu đối của cụ Nguyễn Khuyến.
Cháu biết cụ Nguyễn Khuyến chứ?
- Dạ cháu có học một bài học
thuộc lòng của cụ ấy. Thầy có giảng là cụ học giỏi lắm, đỗ đến ba giải nguyên
lận phải không ông?
- Cháu giỏi lắm. Đúng vậy
nên mọi người mới gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ đấy. Tương truyền là lúc sinh
thời cụ làm câu đối rất giỏi nên thường được các người cùng làng sang nhờ làm
giúp năm ba câu đối mỗi khi nhà có việc hoặc vui mừng, hoặc bối rối. Một hôm,
anh hàng xóm làm nghề đồ tể chẳng may qua đời, vợ anh ta đem quà sang biếu cụ
và nhân tiện xin một câu đối về để thờ chồng. Lễ vật gồm có một bát tiết canh
và một đôi bồ giục. Cụ Nguyễn Khuyến đã làm
ngay một câu đối thật hay rằng:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy,
Ngọn liễu đôi bồ giục điểm trang
Bác Cả mới đọc đến đó thì
Liễn đã cười phá lên. Bác Cả cũng cười to trong lúc mấy đứa bé chả biết gì
giương mắt ngạc nhiên rồi cũng cười theo.
- Vui quá ông à. Bát tiết
canh, đôi bồ giục. Vui quá, cháu phải kể chuyện nầy với bố đã… Nhưng mà bà đồ
tể ấy có đem câu đối về thờ không hở ông?
- Có chứ, vì thật ra đó là
cách ghép chữ thật ý vị. Chứ nếu đọc bình thường thì hai câu trên có nghĩa là :
Cả bốn mùa tám tiết đều chung thủy, hàng liễu, hai bờ cỏ bồ muốn trang điểm.
Một câu tả lòng chung thủy của bà vợ, một câu tả cảnh vật bên ngoài.
- Nhưng nếu mỗi lần muốn có
câu đối thì phải tìm người giỏi, mà làm sao biết để tìm hở ông?
- Ngày trước, hầu như tất cả
những ai có học chữ nghĩa thánh hiền thì đều biết làm câu đối, ăn thua là làm
có hay hay không. Nhất là về ngày Tết, nhà nào cũng muốn có dăm câu đối, hoặc
để đem biếu cho người ơn, người thân nhưng thường là để treo ở cổng nhà mình, ở
hai bên bàn thờ tổ tiên.
Liễn quay người nhìn sang nhà
cụ Đồ. Hai câu đối viết bằng chữ đen nổi bật trên vải điều. Chữ sắc sảo.
Tiếng cụ Đồ vang vang, tự
hào:
- Đấy cụ xem, tôi thảo những
chữ nầy có được không. Câu đối chỉnh lắm chứ. Tôi cảm hứng lúc giao thừa và
viết ngay.
Ông khách của cụ Đồ tấm tắc
khen:
- Đẹp thật, nét chữ như rồng
bay phượng múa. Cụ vẫn nổi tiếng là người viết chữ đẹp mà.
Bác Cả Lý nói với cháu:
- Cụ Đồ ngày xưa đã có lần
viết thuê những câu đối cho khách đấy. Dạo đó cụ viết chữ hay có tiếng nên
người các làng bên, ở cả trên huyện cũng phải tìm đến thuê viết.
Liễn sáng lên một chút ranh
mãnh, nó trả lời bác Cả bằng cách đọc một bài học thuộc lòng:
- Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông Đồ già.
Bày mực tàu, giấy đỏ,
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Bác Cả nhìn cháu đùa:
- Chà, mầy dám trêu cụ Đồ
đấy nhá.
Liễn rụt cổ:
- Cháu đâu dám, cháu đọc bài
học thuộc lòng đấy chứ. Còn đoạn cuối nữa ông à.
Lòng bác Cả chợt buồn hẳn
lại. Phải, còn đoạn cuối nữa, nhưng đọc mà làm gì hở cháu. Thời gian qua, thời
gian đi từng bước, từng bước liên tục và móc nối. Vậy mà cớ sao những hình ảnh
đẹp đẽ ấy lại mất dần. Không còn giữ lại được cái gì, ngoại trừ ở tâm hồn của
những cụ già gần đất xa trời như bác. Mỗi năm một vắng, người xưa thoáng qua
như bóng nắng chiều. Giấy đỏ buồn không thắm và mực thì đọng trong nghiên sầu.
Lòng hoài niệm vẫn còn kia, bất di bất dịch nhưng không ai hay, không ai biết.
Mưa bụi dài ra châm chích lòng hoài cổ. Những cánh hoa đào cũng buồn lòng rơi
rụng. Rồi cái gì đến sẽ đến. Thế hệ nầy qua, thế hệ sau đến. Chỉ buồn một điều
là cái tinh anh dân tộc đã mất dần, biến dần. Bác Cả thờ thẫn nói như nói một
mình:
- Đọc làm gì cho thêm buồn.
Hết thật rồi.
- Hết gì vậy ông? Tại sao
ông nói là ông buồn?
Bác Cả giật mình, gượng cười
bảo cháu:
- Ừ, đọc thì đọc. Nhưng đã
trễ rồi đấy. Để ông về đón khách chào Tết cho bà cháu đi thăm họ hàng. Vào lấy
cho ông cái ô, cái áo dài.
- Dạ, nhưng ông cho cháu qua
nhà ông chơi với.
- Ừ, vào xin phép thầy u
cháu đi, nhớ lấy cho ông cành lộc ông gởi nhé.
*
Con đường về nhà đã đầy ánh
nắng. Trẻ con, người lớn đi lại như hội. Vài sòng bạc nhỏ tụ tập ngay ven gốc
cây, trong sân nhà. Pháo đã bớt đốt, nhưng bù vào đó thỉnh thoảng vài tiếng trống
vọng từ đình đưa lại. Hai ông cháu nép vào nhau dưới cây dù rộng tán. Bác Cả Lý
vừa đi vừa nghĩ chuyện đâu đâu. Thằng Liễn thì cứ mê mẩn với túi mứt được thủ
riêng trước khi ra đi nhân lúc u nó bận tiếp khách. Đi qua đình làng, bác Cả
nhìn vào trong. Người đi lễ đông đen. Các bô lão xúng xính trong bộ áo rộng qua
lại rộn rã. Lễ vật của người làng đem tới cúng đình được chất đầy một cái bàn
đặt giữa sân. Bác Cả nhác trông thấy ông phó Lý đang đứng chỉ chỏ, kiểm điểm đồ
vật. Bác chợt bật cười khi nhớ lại mấy câu thơ châm biếm cổ : Mặc áo the thâm,
đứng dựa cột đình. Xướng rằng : củ soát tế vật…
Thằng Liễn ngừng nhai nhìn
bác, ngơ ngác hỏi:
- Ông cười gì thế ông?
KIM HÀI
(Sóng Vàng)