CHƯƠNG IV
Bác San không thấy lạnh vì tâm trí đang mơ tưởng đến bữa ăn nóng sốt,
ngon lành. Thú nhất là bác chẳng tốn tiền mua, chính cô Bích Huệ, chị của Mỵ
Lan đã biếu bác sau khi mua vải. Con người mới xinh đẹp và tử tế làm sao! Nhưng
mà… suy cho cùng, cô ta cũng là phụ nữ, mà phụ nữ thì… không thể tin được.
Bây giờ bác lại nghĩ đến bữa
ăn tối, thường thường, bữa ăn tối là bữa ăn bác San thích nhất, không vội vàng
như bữa điểm tâm, cũng không đạm bạc quá như bữa ăn trưa. Bữa tối, bác có thể
ngồi kề cà, thong thả, vừa ăn vừa nghĩ đến vàng! Vàng sáng lóe, xinh đẹp, trung
thành, không mè nheo, quấy phá. Vàng! Đẹp hơn mặt trời lúc bình minh, hơn cả
trăng đêm giữa tháng, lửa ấm chiều đông và hoa xuân buổi sáng đều không so sánh
được với vàng!
Có khi cao hứng, bác khuân
vàng ra, đổ lên bàn, vừa ăn vừa ngắm, thật không thú nào hơn thú ngắm vàng.
Đáng ra, bác không vội gì mà
dầm thân trong mưa gió thế này, số là sau khi cô Bích Huệ mua vải bác, khen đẹp
lại dặn bác dệt gấp cho cô một số nữa, y như thế đặng cô biếu người chị họ của
chồng cô.
Lên khung sắp dệt, bác nhận
ra là bác thiếu mất một thứ sợi đặc biệt để dựng đường biên, thiếu thứ sợi đó,
tấm vải mất đi chút ít giá trị, nó chứng tỏ đó là vải của bác San, người thợ
dệt mười lăm năm cư ngụ tại làng Vệ, vải đẹp, tốt, bền có thể so sánh với thứ
vải đặc biệt từ các thị trấn lớn đem về, mà các thứ từ thị trấn lớn đem về lại
đắt hơn!
Thế là, bác San băng đồng
xuống phố, mua. Không cần gài cửa, vì bác chẳng đi lâu lắm, vả lại, ai mà thèm
đến nhà bác vào đêm mưa gió tối tăm thế này? Còn tụi đạo chích thì chúng đâu có
điên mà lò dò ngang hầm đá? Rủi lọt chân xuống đó có mà bỏ đời. Bác San rất yên
tâm.
Về đến nhà, bác San không
nhận thấy dấu vết gì cả, mắt bác kém quá. Bác lo thêm dầu vô đèn rồi cất mũ,
dẹp bao; đoạn ngồi lại, sửa soạn làm món thịt ngon mà không tốn xu nào, vừa
sưởi ấm một cách nhàn nhã.
Trong lúc chờ cho thịt ăn
được, bác nghĩ đây chính là lúc ngắm vàng. Cửa nẻo đã đóng chặt, ma nào lảng
vảng đến đây mà lo? Bác sẽ đổ hai túi vàng bạc lên một nửa bàn (còn một nửa để
chừa chỗ dọn bữa) vừa ăn, vừa ngắm như thói quen dạo gần đây!
Bác San cầm đèn đi lại khung
cửi, đặt lên nền gạch, hì hục bới cát cạy gạch lên, nâng bỏ qua một bên. Chúa ơi!
Bên dưới rỗng không! Trống ngực đập liên hồi như trống trận, bác đờ người ra.
Trời lạnh ngắt mà mồ hôi tuôn dòng dòng xuống mặt, xuống trán, người bác nóng
bừng lên.
Không, bác không tin rằng
vàng đã mất. Không thể có chuyện đó, vô lý quá! Bác sờ soạng thật kỹ, tưởng
mình đã nhìn lầm vì mắt kém. Tay bác chạm vào
khoảng trống lốc, nhưng bác cũng chưa chịu tin, cầm nến soi vào. Bấy giờ bác
run bần bật, há hốc miệng mà không kêu được một lời, buông rơi ngọn nến xuống
nhà, kinh hoàng tột độ… rồi lặng người đi.
Một lúc sau, lửa tàn, nến
tắt, bóng tối tràn ngập cả nhà, bác San tỉnh lại vì hơi lạnh ngấm vào mình. Hai
tay bưng lấy đầu, bác cố trấn tỉnh để nghĩ xem ai là kẻ trộm? Biết chừng đêm
qua bác đã quên chôn vàng lại trước khi đi ngủ, bác có thể đãng trí lắm chứ,
sao không? Bác San thổi lửa lại, đốt đèn lên, lục lọi giường, chăn, bếp, củi,
soong, chảo không chừa một chỗ nào.
Run run hai gối, bác cố gắng
đi lại bàn, nhìn trừng trừng, mặt bàn trơ trụi, trống trơn. Bác quay ra sau
lưng, đôi mắt nâu quắc lên như muốn xoi thủng xuyên qua vách tối. Cái gì cũng
nguyên si đầy đủ, chỉ thiếu có vàng thôi!
Vàng nó có chân đâu, có bụng
đâu mà nói rằng nó đói, nó bò đi tìm thức ăn kia chứ?
Bác San lại bưng lấy đầu
bằng hai bàn tay xương xẩu run run. Bác lắp bắp kêu lên không thành tiếng gì rõ
rệt trong đêm khuya, tiếng kêu thống khổ nghẹn ngào, uất ức của bác vàng lên
như tiếng kêu của con vật trúng đạn bất ngờ, bị thương trí mạng kêu rên…
Khi mọi hy vọng rằng mình để
quên hai bao của cải đâu đó hoàn toàn tiêu tán, bác San mới chịu tin là mình bị
kẻ trộm lẻn vào trong khi bác vắng mặt, lấy đi. Hắn là ai? Bắt được hắn thì mới
mong lấy lại số vàng bạc nặng chĩu trong hai cái bao da. Nhưng làm sao bắt? Trong
lúc mình lục lọi hắn đã đủ thì giờ cao bay hay xa chạy mất rồi!
Như người mất hồn, bác mở
rộng cửa nhìn qua bóng đêm, mưa hắt vào mình vào mặt bác, lạnh căm.
Bác quay vào, đóng ập cửa,
ngồi thừ suy nghĩ. Ít nhất, phải moi óc tìm xem có kẻ nào đáng nghi ngờ rồi mới
tính chuyện tìm thủ phạm. Láng giềng thì không có ai, vì nhà mình hẻo lánh quá.
Người khả dĩ đáng ngờ là Dân, hắn ta là người duy nhất hay lai vãng con đường
này và đôi khi gặp mình.
A! Lại có lần hắn nói đùa về
tiền nong của mình nữa kia. Hắn nói thế này đây:
- Bác san, bác có định cất
lại nhà không? Dệt vải được nhiều tiền, bác định dùng làm gì? Hay bác cho tôi
vay vậy, nhá?
Hừ! Nếu hắn không rình rập
dòm nom làm sao hắn biết mình có nhiều tiền? Cái mặt thì thớ lợ, cười cười, cợt
cợt, đúng là mặt kẻ gian! Cái tên cũng dễ ghét : Dân! Tên gì lại tên dân? Chứ không làm dân, bộ mặt ấy lại
tính làm quan chắc? Mà cái họ lại càng đáng ghét hơn : họ Tạ! Tạ văn Dân! Cái
họ kêu lên nghe nặng nề quá đi mất! Tạ văn Dân – bác San kêu to lên – tao sẽ
tóm cổ mày, đòi lại tất cả số vàng, số bạc của tao, tiền mồ hôi nước mắt… tao nhớ
kỹ, không sơ suyển một đồng dù đồng nhỏ nhất trong hai cái bao ấy, Tạ văn Dân
ạ!
Nói thì nói thế, bác San vẫn
chưa biết làm cách nào để tóm cổ tên Tạ văn dân. Bác quả có lúng túng thật.
Luật pháp, một thứ chuyện quá tầm hiểu biết của bác thợ dệt, một thứ xa vời
không liên quan gì đến chuyện vải, thoi, chỉ, sợi không ngờ lại có một ngày bác
thợ dệt chân phương ở làng Vệ phải cầu cứu đến. Phiền phức như thế đấy!
Suy nghĩ phát nhức đầu cũng
chả ra manh mối gì rõ ràng để kết tội Dân, người mà bác San đinh ninh là thủ
phạm vụ trộm ghê gớm này. Dĩ nhiên với bác thì hắn đúng là tên trộm, không
chệch đi đâu, nhưng mọi người có chịu tin thế không? Nhất là luật pháp, luật
pháp có tin như bác không. Phải trình làng hay lên quận rồi pháp luật sẽ lo cho
chứ bác thì có biết đằng nào mà lần? Nghĩ lắm hóa đau thêm khổ.
Phải hành động tức thì trước
khi thủ phạm trốn mất mới được. Thế là, chân không, đầu trần bác băng mình ra
mưa gió, không thèm gài cửa vì bây giờ còn gì nữa mà cẩn thận cho nhọc lòng?
Chạy một chốc, bác ngừng lại thở dài. Nhà việc giờ chắc chắn đã đóng cửa, ai
tiếp bác vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cách tốt nhất là đến thẳng quán Ngàn
sao, nơi họp mặt của hầu hết dân làng, nhất là những anh có máu mặt, có chức vị
trong làng.
Nghĩ sao làm vậy, bác San
nhắm hướng quán Ngàn Sao, cắm cúi đi đến đó.
Đến nơi, bác thợ dệt không
may dừng lại trước cửa, thở cho lại sức, đoạn xô cửa bước vào trong.
Bên trong ấm cúng và sáng
rực, mọi người tụm lại bàn chuyện mưa nắng từ chập tối chán rồi, họ đang xoay
qua chuyện ma quái. Ma quái! Chào! Đó chính là chuyện thích thú nhất, sôi nổi
nhất, không bao giờ cạn (vào thời bấy giờ chuyện ma quỉ lẫn lộn với phàm nhân
là chuyện lắm kẻ tin).
Trong bọn, có hương sư Phan
là người cứng cổ nhất, ai nói gì ông vẫn khăng khăng là không có ma quái.
Ực một ngụm rượu, chùi miệng
bằng lai áo, đặt cốc xuống bàn một cái mạnh, ông ta hắng giọng, dõng dạc:
- Được, cứ đặt giả thuyết là
có ma, thế tại sao không thấy giữa ban ngày thanh
thiên bạch nhật? Sao chúng cứ lựa đêm tối, cây cao mà nấp? Trong chúng ta
đây, khi đi đâu năm bảy mạng có bao giờ thấy ma không? Sao cứ hễ tướng nào đi
một mình thì y như rằng có chuyện? Tôi thì tôi cho là chẳng qua thần hồn nát
thần tính, trông gà hóa cáo, nhìn bụi cây lại ngỡ hình người, chỉ vì bị ám ảnh
chuyện ma… Tôi ấy ư? Còn lâu tôi mới…
Người ăn học nói có khác,
năm sáu cái miệng cùng há hốc ra, mười mấy cái tai cùng dỏng lên, mười mấy con
mắt cùng chăm chú vào người nói. Phan đã văn chương lại hùng hồn, nguyên chỉ
bốn tiếng thanh thiên bạch nhật cũng
đủ cuốn hút sự chú ý cửa mọi người rồi.
Đột nhiên, mọi người cùng
giật mình quay lại vì tiếng động sau lưng. Kẻ yếu bóng vía nhất suýt kêu lên,
nếu Phan không điềm tĩnh nhận diện con ma lù lù xuất hiện bất ngờ. Công bình mà
nói, thoạt tiên, Phan cũng hơi hãi, nhưng vốn là tay chì có tiếng, nên anh ta tỉnh táo sớm hơn hết, quan sát con ma
gan góc kia, khi thấy rõ là bác thợ dệt, Phan không khỏi buồn cười, nhưng nom
sắc thái người thợ dệt, anh không thể cười được.
Mọi người đều ngạc nhiên,
không ai thốt được lời nào, bác San thì thở hào hển, mặt xám ngoét vì mệt và
tức giận. Mãi hơn phút sau, chủ quán mới lên tiếng hỏi:
- Bác San, bác có việc gì mà
đến đây khuya khoắt thế này?
- Kẻ trộm, thưa ông! Kẻ
trộm! Bao nhiêu vàng bạc của tôi mất sạch rồi! Tôi phải gặp các quan! Ông cảnh
sát, ông xã trưởng, ông hội đồng… Cần lắm. Các quan phải giúp tôi!
Chủ quán bảo Dân ngồi cạnh
đó:
- Dân, giữ bác San lại ngay!
Dễ chừng bác ấy bị ma làm hay hóa điên cũng nên! Tội nghiệp…
“Ủa, thế kia ư? Có cả Tạ văn
Dân ngồi đây? Gan thật : ăn trộm cả hai bao vàng bạc của người ta rồi ung dung
đến quán uống rượu, chuyện trò tỉnh như không! Gớm thiệt cái quân này!” Bác thợ
dệt nghĩ thầm một cách giận dữ. Thế là nạp mạng cho hổ rồi đây mà!
Trong khi Dân chưa nhúc
nhích được một phân thì bác San quắc mắt lên:
- Tạ văn Dân! Tôi tìm anh
đấy!
Dân kinh ngạc hỏi:
- Bác tìm tôi có việc gì,
kia chứ?
Bác San điểm một ngón trỏ
vào trán Dân, gằn giọng:
- Thôi đừng làm bộ ngây thơ,
biết điều thì mang trả ngay cho tôi hai bao vàng bạc, tôi biết hết, tôi nhớ rõ
tôi có bao nhiêu… trả ngay cho tôi, tôi không thưa gửi chi hết, tôi tha anh,
tôi sẽ…
Dân há hốc miệng trước những
lời buộc tội hùng hổ của bác thợ dệt, nhưng sau anh ta hiểu được, cơn giận bốc
lên, Dân chồm tới tát một cái đánh “bốp” vào giữa mặt bác San, gầm lên:
- Câm lại, lão ngu! Nếu mà
lão còn ho he bảo là ta ăn trộm tiền vàng nữa thì ta đánh cho vỡ mặt tức thì…
nghe chưa? Không phải cứ mất của rồi hóa rồ lên, bạ ai cũng đổ ngờ cho người ta
đâu, nhé, nhé? Ông thì ông bẻ hết răng cùng, răng cấm, răng nanh…
Chủ quán và mọi người cùng
sửng sốt đứng yên không kịp can ngăn. Bác San lùi lại vì bị cái tát bất ngờ,
còn Dân thì xông lên như toan làm dữ. Chủ quán vội vàng nắm tay Dân kéo lại, ôn
tồn:
- Dân! Chú mày chớ nóng. Để xem
đầu đuôi câu chuyện ra sao. Bác San! Bác cởi áo ra nào! Áo bác ướt sũng thế
kia, lạnh chết. Hãy ngồi xuống cả hai người. Chuyện đâu còn đấy, đừng nóng nảy,
không hay!
Dân hầm hầm mặt:
- Nói gì thì nói, chứ hễ còn
nói tôi trộm tiền thì tôi nện cho một trận, đến đâu thì đến, đừng tưởng dễ.
- Thôi! Dân! Chú mày lắm lời
thế. Để yên xem bác ấy nói gì, nào?
Bác San đã ngồi xuống theo
lời chủ quán nhưng chưa cởi áo, nước mưa chảy ròng ròng xuống chân, nước mắt
lặng lẽ bò dài xuống đôi má hóp, dáng bộ thiểu não làm cho mọi người trong quán
đều phải động lòng. Dân nói như phân bua:
- Đời thuở nhà ai mới thấy
mặt mình là đổ riệt cho mình ăn trộm…
- Thôi! Tôi đã bảo thôi, để
yên bác nói xem sao…
San bình tĩnh lại, bắt đầu
lên tiếng kể đầu đuôi câu chuyện, giọng bác trầm trầm, buồn bã, khổ sở, mặt bác
biểu lộ tất cả thành thực; không ai có thể ngờ là bác bịa chuyện được. Khi bác
dứt lời, mỗi người hỏi một câu nháo cả lên. Dân cũng dịu lại:
- Nhưng tại sao bác ngờ vào
tôi?
- Thực ra tôi không dám ngờ
ai hết, cả anh nữa. Nhưng mất của xót ruột, tôi cố nhớ lại xem có thể nghi ai
và chỉ nhớ rằng anh có một lần đùa với tôi một câu về chuyện tôi có nhiều tiền…
- À, ra thế đấy!
Dân mát mẻ. Bác San buồn
rầu:
- Dầu sao thì tôi cũng bị
anh đánh một cái rồi, tôi xin lỗi anh…
- Bây giờ bác còn nghi cho
tôi nữa không? Hãy hỏi mọi người ở đây thì biết tôi có mặt đây từ lúc nào.
Chủ quán nối lời Dân:
- Phải, bác San này, Dân nó
có mặt đây từ chiều, khoảng thời gian ấy đích là khoảng thời gian bác rời nhà…
- Bây giờ bác tính sao đây?
Giọng khổ sở, bác San nói
như rên:
- Nào còn biết làm sao, tôi
rối mù cả đầu óc, phát điên lên…
Thầy giáo Phan hỏi:
- Bác có nhớ số tiền bạc là
bao nhiêu không?
- Có chứ, tôi nhớ rõ lắm vì
tôi mới đếm chiều hôm qua. Cả thảy là hai trăm bảy mươi ba đồng vàng, một trăm
năm mươi tư đồng bạc và mười sáu đồng hào.
- Thế à? Thế thì nặng lắm,
nhiều lắm, cả một gia tài của người ta. Quân nào mà ác thế, hả trời?
- Bác có thấy dấu vết gì
không?
- Không, tuyệt nhiên không,
vả lại…
Bác San ngừng nói đưa tay
chỉ vào mắt mình, ra hiệu rằng mắt kém vì bác nghẹn lời không nói được. Mọi
người xuýt xoa tiếc hộ cho bác. Phải! Ai tiếc chi một cử chỉ tỏ ra thương hại
kẻ không may?
Sau một hồi bàn qua, tính
lại, chủ quán vui lòng cho bác San mượn cái áo mưa của mình và một người nữa
được cử ra để cùng đi với bác đến nhà ông xã trưởng làng Vệ thưa chuyện kẻ gian
với ông ta.
___________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG V