Hò hơ…
Anh đi chuyến gạo Gò Công
Anh về Bao Ngược… hờ…
Anh về Bao Ngược bị giông
đứt buồm…
Anh ơi!...
Thuyền anh cao nhưng sóng cả
nhận chìm…
(Em trông) sông bao nhiêu
khúc… hờ…
Sông bao nhiêu khúc, nỗi
niềm ruột đau… hơ…
Chú rể mới vừa mượn tiếng
hát đoạn trường của người quả phụ, nhớ bạn thương hồ mua bán lúa gạo, thường
qua lại Gò Công và lâm nạn nơi đây, để giải thích cho cô dâu biết ý nghĩa tên
khúc sông. Anh Công nói thao thao:
- Người ta gọi là vàm Bao
Ngược vì trong sông Vàm Cỏ, khúc này bao quát tất cả nhiều nguồn rạch đổ xô về.
Nào là ngành Bến Lức chảy xuôi, nhánh Mỹ Tho sang Chợ Gạo chảy xuống, thông với
sông Tra từ rạch Gò Công, đổ ra là bể Nam hải ngoài Soi Rạp tràn vào.
Cô Thảnh gật đầu ra vẻ hiểu
biết:
- Thì ra lòng sông quá sâu,
nước chảy mạnh sóng động to, bởi nhiều mối nước đổ xô, chống chọi xoay quanh
thành ra những cuộn nước xoáy chớ gì?
- Đó đa…
- Anh đừng hò nữa, nghe buồn
quá.
- Anh cũng nghĩ vậy. Hồi nãy
chú Bảy tính biểu anh lấy cây đờn ra khảy mới là ác ôn…
- Cây đờn một dây của anh?
- Ờ ờ, kêu là cây đờn độc
huyền. Ai lại nỡ đờn não nuột giữa buổi rước dâu long trọng thế này.
Cô Thảnh mắc cỡ háy mắt. Cô
nhìn ra khoang ghe. Bạn ghe đã hạ buồm. Cô chỉ nhìn thấy từ cửa sổ “ghe chài
lớn” một bên bờ sông Mỹ Lợi. Chắc bên kia bến Cần Đước cũng đầy rừng bãi um
tùm. Ông lái đò cũng thở phào như vừa trút một gánh nặng trên vai. Người đi ghe
sợ nhứt lúc qua lại khúc này, lướt sóng bị “Đả đầu phong” : là hướng gió Đông Nam
ròng rã thổi qua hơn các chiều gió khác.
Sóng to đã hết đập mạnh hai
bên mạn thuyền. Nước hết bắn tung tóe trên sàn thuyền. Chỉ còn một ít hoa trắng
xóa bị bỏ lại dần dà trên dòng nước cuồn cuộn, đục ngầu phù sa. Như tâm hồn cô
Thảnh đã mất mát bao nhiêu là kỷ niệm ở quê nhà, để theo chồng đi xứ lạ. Bỗng
có tiếng súng nghe “cắc bụp”, kèm theo tiếng quát tháo:
- Ghe bà con đi đâu mà đông
vậy? Hổng tiến tới được nữa.
Ông trưởng tộc bên đàng
trai, lo lắng hỏi thăm:
- Dà, ghe đám cưới mà chú
em. Cho ghe của qua qua đi, trỏng toàn ông già bà cả không hà.
- Đã nói hổng có được, trở
lui mau, bằng không mấy người đi ngõ khác.
- Mấy chú thông cảm, để cô
dâu chú rể còn kịp giờ lễ tạ…
- Mấy người hổng hay gì hết
sao? Tây tà kéo chiến thuyền bố ráp rần rần, ra đó là nạp mạng.
Ông trưởng tộc quay vào. Mọi
người bàn tán nhốn nháo. Mấy bà yếu bóng vía, hối quày lui. Mấy ông cương quyết
đi đến nơi, về đến chốn. Chiếc ghe chài dè dặt chèo thẳng, nhắm hướng Mỹ Tho.
Hình như có khói bốc xa xa. Mọi người đành phó mặc cho số mạng, may nhờ rủi
chịu. Hai bên sông toàn là dừa nước, lao xao một vẻ hồi hộp. Hoàng hôn xuống
bóng mau không thể tả. Vài con chim lạc bầy đập cánh vội vã, gọi nhau âu lo.
Gần đến khúc quanh Truông Cóc, anh bạn ghe đứng ở đầu mũi chợt thấy những cái
bè to trôi chậm chạp theo dòng nước vừa mới đổi chiều. Bè liên kết bởi 2, 3
xuồng nhỏ, ở trong chứa rơm khô và đẫm ướt dầu chai. Bên trên là cây lá lợp nhà
của dân. Hèn nào nhà của dân ở ven sông bị dở hết để xung công. Lần này không
được lịnh ghe cưới vẫn tự dừng. Khuất Truông, “người nhái cảm tử” của quân
kháng chiến vừa phát hỏa. Lửa bốc lên theo gió, lan tràn đầy khúc sông. Khói
lửa mịt mù, mùi chai xông ngùn ngụt. Giữa tiếng la hét rối loạn của quân lính
trên chiến thuyền Pháp lo chống đỡ bè lửa tấp vào, dập tắt… là tiếng hô “xung
phong” của quân kháng chiến, xen lẫn tiếng khóc kinh hoàng và niệm kinh “cứu
nạn, cứu khổ” liên hồi của thân nhân cô dâu, chú rể… Bây giờ có trở lui cũng
không kịp, ghe cưới ghé lại bên bờ mọc đầy cây cóc, chà là, dừa nước. Quân
kháng chiến xài súng thô sơ và cả cung tên. Dù núng thế quân Pháp cố chống cự,
chiến thuyền tiến sâu vào, hy vọng vượt thoát những bè lửa đã soi sáng. Chiến
thuyền cũng nổi giận như đám giặc Pháp, kịp lúc bắt gặp chiếc ghe chài rước dâu
mà cứ ngỡ là đối thủ. Tên pháo binh điên cuồng nã đại pháo vào. Từ bờ sông nhô
lên 1 cây súng chòi ngòi – vì khi bắn phải dồn thuốc và đạn vào lòng súng rồi
châm ngòi lửa, mới có thể nổ – đã bố trí sẵn, toan bề ngăn cản. Súng thần công
bên Pháp nổ trước. Đạn phá tan tác mũi chiếc ghe chài chăng hoa kết tụi. Anh
Công cảm tưởng mình vỡ toang cặp mắt cùng bung lồng ngực. Anh ngã chúi xuống
dòng nước vừa hòa máu thân nhân. Chập chùng lửa đạn, lính Pháp thấy trôi mờ mờ
những cái thây mặc đồ đen trồi lên hụp xuống. Có cái chìm hẳn kéo theo những
khúc căng phồng của quần vải quyến màu trắng. Chiến thuyền cặp sát ghe chài.
Hai tên lính gan dạ nhất nhảy lên ghe, chuyền theo dấu chân lấp xấp trên bãi
bùn. Lục xét một hồi chúng chúng ghịt tóc được 1 cô gái và 1 bà già run rẩy núp
sát gốc dừa nước. Quần áo đẹp đẽ của hai người lấm lem. Hai người đáng thương
sợ điếng hồn. Họ tránh xác 1 kháng chiến quân nằm lật ngửa bên cạnh cây súng chòi
ngòi thô sơ. Cặp mắt uất ức của anh ta không nhắm vì chưa tròn bổn phận. Xâu
chuỗi màu hổ phách của cô Thảnh bựt đứt. Hột to bằng ngón tay cái rơi lây lất
như nàng Mỵ Châu rải đường lông ngỗng cho Trọng Thủy. Nhưng có ai biết anh Công
đã trôi tấp theo mấy đám lục bình.
•
Gò Công giữ vững được 3 năm,
nhờ công lao của Đô đốc Trương Công Định, cùng với tùy tướng liều mình chiến
đấu với quân Pháp, nào đường thủy, đường bộ ào ạt tiến đánh.
Định Tường thất thủ, Pháp từ
Chợ Gạo theo đường bộ lần vô. Chặng Hòa Ninh đến
Gò Bầu bị chận lại đánh lui, mấy lần như vậy nên binh Pháp chưa chiếm được Gò
Công. Mãi đến năm 1863, Lãnh binh Tấn cùng bọn phản thần theo Pháp dẫn đường
chỉ lối, đem chiến thuyền trở lại ngã Bao Ngược, tràn vào sông Tra và đổ bộ lên
Xóm Tre (Bình Thạnh Đông) nổ súng vào các nơi có đồn binh của ta trú đóng. Binh
sĩ lo kiên thủ mặt Tây Bắc, giữ ngã sông Tra.
Lãnh binh Tấn dẫn một đoàn
chiến thuyền chạy vào Cửa Tiểu, đổ bộ lên Bến Chùa, Cửa Khâu đánh bọc hậu là từ
Gò Nâu, Tân Duân Trung. Nơi này trấn thủ rất mỏng, thêm thớt súng Thần công đặt
trên đồn trấn phía Đông Nam
là ông Cà Lăm hay trục trặc, nhiều khi châm ngòi ông bập bập mà không nổ. Cho
nên binh Pháp tiến đến rất mau và xông vào vây thành, quân binh ta kháng cự
không nổi.
Gò Công thất thủ, ông Trương
Công Định cùng với đoàn tướng sĩ phá vòng vây, rút về Tân Phước. Ít lâu ông
chiêu tập quân sĩ, cùng với tướng lãnh nghị kế phục binh, đón đánh thình lình –
như lối đánh du kích hiện thời – Hơn một năm nhờ lối đánh ấy, nhiều keo làm tổn
hại binh Pháp.
Ông thường qua lại Lý Nhơn
trên sông Vàm Cỏ và dĩ nhiên xuôi ngược biết bao lần trên vàm Bao Ngược để tiếp
xúc với những nhà ái quốc, như các ông : Nguyễn Trung Trực ở Tân An, Bùi Quang
Diệu ở Cần Đước và ông Nguyễn Công Nhàn ở Chợ Gạo, đều tích cực lo chiêu mộ
quân sĩ, mua đạn dược, đúc súng trữ lương, chờ cơ hội phản công.
Từ lâu quân Pháp hao binh,
tốn nhiều tiền bạc mua chuộc bọn thám tử, lần hồi bọn gian manh mờ mắt vì tiền,
chỉ vẽ cho quân Pháp, biết đường lối vào “đám lá tối trời” ở Gia Thuận là nơi
căn cứ đóng binh quan trọng của ta.
Lãnh binh Tấn cùng với binh
Pháp đem toàn lực lượng xuống vây rừng và quyết bắt sống ông Trương Công Định.
Khi ông cùng binh sĩ phá trùng vây thoát thân thì bị đạn của Tấn bắn vào bắp
đùi, ông té quị xuống. Lãnh binh Tấn khuyên ông đầu hàng. Nhưng ông tuốt gươm
điểm mặt Tấn rồi tự đâm vào hông tử tiết.
Gò Công một vị trung thần
tiết nghĩa vì nước quên mình. Dân chúng đều bùi ngùi tiếc thương. Thi sĩ Nguyễn
Đình Chiểu khi hay tin ấy, có gởi thi điếu trong có những câu:
Trên trại đồn điền (1), hoa
khóc chủ
Dưới vàm Bao Ngược, sóng kêu
oan
Mây giăng Truông Cóc (2),
đường quan vắng (3)
Trăng xế Gò Rùa (4), tiếng
đẩu tan (5).
•
Mặt trời gần chen lặn. Hàng
dừa cong vút, những tàu lá lao xao đùa với gió. Gã ăn xin vừa bỏ cái nón lá
xuống. gã mở hai nút áo bà ba gần cổ, tay kia dùng nón phe phẩy thêm. Gã ngồi
chưa nóng đít bỗng giật mình vì tiếng quát:
- Thằng kia đi chỗ khác mau.
Gã ăn xin trợn cặp mắt và
quay lại. Cặp mắt đứng tròng không trông thấy được gì cả. Lặng lẽ gã mò mẫm ôm
cây đờn độc huyền và quờ quạng cây gậy tìm lối đi. Chừng như đã thương hại cho
người nghệ sĩ mù, anh người Việt mà đi lính cho Tây bèn nắm một đầu gậy và dẫn
gã ăn xin một quãng.
- Nè đi từ đây ngược lên chợ
kiếm ăn, đừng có chộn rộn gần dinh ông quan Ba thì chết đa.
- Chú cho tôi ngồi nghỉ đỡ
một chút.
- Ờ, mà ngồi đây thì được.
- Để tôi đờn chú nghe một
bản.
- Đờn thì tôi nghe, mà nói
trước tôi hổng có tiền đâu để mà cho à.
- Ậy, đờn một bản cho vui.
- Thôi đi cha nội, đờn loại
này nghe rầu thúi ruột, nhớ vợ, nhớ con, nhớ nhà… nhớ đủ thứ, vui sao nổi mà
vui.
Gã ăn xin không trả lời,
ngồi bẹp xuống đám cỏ và bắt đầu trổ tài. Gã đờn hết bản này sang bản khác. Anh
lính nghe mê mẩn, thờ thẫn rút khăn mù xoa và chậm nước mắt rơi vô thức. Nắng
đã tắt hẳn. Gã ăn xin từ giã người thính giả duy nhất. Gã không cho biết sẽ về
đâu, vì hiện gã là khách giang hồ.
Nhưng chỉ ngày hôm sau là họ
lại gặp nhau. Gã ăn xin được vời vào dinh đờn cho vợ quan Ba nghe. Lần này gã
đờn trong một không khí trang trọng khác thường, có thêm ba thính giả ngoài anh
lính gác cổng. Đó là ông quan Ba (Đại úy hạm trưởng), anh cận vệ và cô vợ Việt.
Tội nghiệp! Gã ăn xin đã hỏng đôi mắt. Bằng không gã đã nhìn lại được người vợ
xưa kia. Chính cô Thảnh còn may, tuy gặp được anh Công chồng cũ trong một
nghịch cảnh oái oăm. Cô phải vờ như xa lạ. Dẫu muốn bày tỏ vui mừng cô cũng
không thể thốt nên lời. Bấy lâu nay cô như một cái bóng, sống chỉ có thể xác mà
thôi. Ý định của cô, một ngày nào đó sẽ là con chim thoát khỏi lồng giam về sum
họp với cố nhân. Năm tháng qua dần đã dập tắt tất cả. Cô chỉ còn biết sống cho
tha nhân. Nào òn ỷ với tên quan Tây hãy giảm bớt tội cho đồng bào, trong đó có
thân bằng quyến thuộc của cô. Nào ngăn cản những kỳ bố ráp và nổ súng vô cớ vào
các làng mạc ven sông khi tàu đi tuần tiễu. Nào tha cho bà dì, bị bắt cùng một
lượt với cô. Nhưng hoàn cảnh cá chậu chim lồng của cô thì đừng hòng thay đổi
được. Đến cái lúc mà cô không chờ không đợi, ai xui chi cô hội ngộ cố nhân. Gặp
nhau không thể thốt một lời. Gã quan Tây chiều vợ, chớ trong lòng không có hứng
thú thưởng thức văn nghệ. Dù qua không gian, tiếng đờn khá rung cảm đã ru gã về
phía quê hương xa vời cách trở. Cô Thảnh cũng không ngờ anh Công giờ sống kiếp
ăn xin lang thang khắp nẻo. Cô muốn chạy đến ôm chầm lấy anh Công để hỏi thăm
cho thỏa mọi thắc mắc. Rốt cuộc chỉ có tiếng khóc nức nở. Gã quan Tây xụ mặt và
ra hiệu cho tên cận vệ. Anh lính cận vệ trao tiền từ tay chủ. Anh ta xổ một
tràng tiếng Tây tỏ ý khen. Đến phiên anh lính gác cổng đưa anh Công ra, anh
Công thoáng nghe tiếng cô vợ quan Ba hỏi vói:
- Chú có biết hò không? Ngày
mai tới đây hò và đờn nữa nghe.
Anh Công nghiêng đầu nhận
xét. Đúng rồi, không lầm được giọng nói của người xưa cho dù bao năm ly biệt.
Sau khi bị mù anh phân biệt được âm thanh rất rõ ràng. Nếu không được mời anh
cũng sẽ tìm cách trở lại dò la tung tích của người vợ. Không phải anh Công mong
chắp nối duyên xưa lỡ làng, nhưng anh muốn đem tin của người vợ đã trót sa vào
tay giặc cho thân nhân bên vợ an lòng. Ngày nữa qua. Không thấy anh lính tìm
mình ở chợ Mỹ Tho. Anh Công lặn lội trở lại dinh quan Tây. Anh chưa biết màu
tang vừa trùm lên dinh thự. Anh lính gác cổng kéo anh Công đến gốc đa bờ sông
để thuật chuyện…
“Đêm ấy, cô Thảnh cãi nhau 1
trận với ông quan Ba, nghe đâu có tiếng súng nổ thì phải, có lẽ cô ta định tự
sát hay giết ông quan Ba, hoặc là 2 người giành súng với nhau gây ra. Sáng
ngày, quan Ba dậy đi làm, cô Thảnh tuôn chạy ra bờ sông, ông quan Ba rượt theo…
“
- Trời, ông ta bắn vợ?
- Không, ông ta giữ không
kịp, cô Thảnh tự vận mà.
- Không có ai cứu sao?
- Con sông rộng và nước cuồn
cuộn, ông ta huy động cả lính của chiến thuyền mò cả nửa buổi trời.
- Rồi sao nữa?
- Chết mất xác, trôi đâu rồi
ai mà biết cha nội. Có lẽ ông ta phải kiếm cô vợ khác quá. Bà sau này, không
biết có thương mến tụi tôi và bồi bếp như cô Thảnh không đây?
Anh Công lùng bùng lỗ tai,
không nghe thêm gì hơn. Anh như mơ hồ thấy lại giây phút kinh hoàng ngày ấy.
Giữa tiếng súng đạn vang rền, anh tức ngực, rát mắt và ngã ập xuống nước anh
trôi mãi. Đúng hơn anh vướng vào đám lục bình du mục. Rồi anh được ngư phủ cứu
sống. Họ giữ anh lại để chăm nom. Nhưng anh nhất quyết ra đi. Anh chỉ cần họ
tìm giúp 1 cây đờn độc huyền để tự mưu sinh và lần mò về quê. Trong dòng nước
đục ngầu phù sa, anh Công thấy 2 hình bóng bềnh bồng. Tay
anh nắm chặt lấy tay cô Thảnh trôi mãi. Trôi nhẹ nhàng như tiếng hò êm ái vương
vương.
Và anh Công đã gặp đúng giấc
mơ ngay đêm hôm đó. 1 chiếc đò con sút dây. Nước sông dâng lên và con thuyền từ
từ tách bến không người lèo lái. Ông chủ đò sật sừ men rượu mò xuống bến. Ông
gọi thằng cháu nho nhỏ. Thằng cháu không có ngủ trên đò, và cái đò đâu mất. Ông
la hoán lên. Mấy người ngủ trong khoang mấy ghe khác càu nhàu. Ông già say hốt
hoảng và tỉnh rượu. Một người vừa thấy lờ mờ con đò nhỏ ẩn hiện, trôi chậm chạp
như con đò ma. Nhưng họ không dám đốt đuốc hay vặn tim đèn dầu cao hơn. Họ kêu
ầm:
- Xi, Xi dậy mau. Xi ơi Xi!
Họ quên la rằng “đò trôi” mà
cứ mãi kêu tên thằng nhỏ. Họ cũng không thể tháo neo đò mình chèo theo con đò
trôi giữa đêm hôm tăm tối. Họ sợ lính Tây bắn. Họ càng sợ vì đò sắp đến cầu
quay. Giữa lúc ấy thằng Xi tốc chiếu chun ra. Thằng nhỏ ngủ trên mui một ghe
khác. Ông già say chửi thằng cháu nát nước:
- Biểu mày ngủ giữ đò, cột
dây cho chắc, mày bỏ đò trôi mất, mồ tổ mày, thằng ăn hại!
Thằng Xi càu nhàu cãi lại:
- Đầu hôm tui ngủ, kế nhường
chỗ cho anh mù.
Mọi người ngạc nhiên:
- Anh mù nào, anh mù vác đờn
ăn xin quanh chợ này hả? Rồi, vậy cái đống lù lù trên đò là anh mù, hổng phải
mày.
Ông già say vẫn chưa hết tức
giận:
- Đồ quỉ báo gì đâu. Bây giờ
mày hổng lội theo đò, leo lên chèo về hả?
Thằng Xi cởi áo ra. Có người
ngăn lại:
- Muốn chết sao? Lội tới cầu
dây lính gác bắn xả đại vào mày với đò. Lính khỏi thèm phân biệt mày với phá
hoại đâu.
Thằng Xi nhớ đến anh bạn mù
khố rách. Anh ta hứa sẽ dạy nó đờn. Cái điệu này nó phải tìm cách cứu anh bạn
vong niên vừa quen. Thằng Xi nhảy cái “ùm” không kịp để ai giữ.
- Ông già ác quá, quí chiếc
đò hơn cháu mà.
- Có ai lội bắt nó lại… Xi,
Xi… trở lại mau.
Thằng Xi bơi chưa được mươi
sải tay. Một tiếng súng nổ nghe lồng lộng trong đêm vắng. Rồi tiếng quát tháo,
cùng lúc với tiếng súng từng tràng. Con đò quay mòng mòng theo xoáy nước gần
chân cầu giật nẩy lên. À không! Bóng đen trên “con đò im lặng” giẫy chết. Đò và
người trúng đạn oan không biết nói lời gì. Thế là anh Công mang giấc mộng rực
rỡ xuống tuyền đài. Con đò đưa xác cũng là anh về một chốn để linh hồn của hai
kẻ sống không gần, thì thác sẽ bên nhau.
Thằng Xi tấp vô bờ, lội
ngược về. Nó đưa tay vuốt cái đầu chảy nước ròng ròng. Có lẽ trong số nước ấy
có hòa một chút nước mắt của nó, khóc cho một tài hoa bạc mệnh. Thằng Xi thấy
đám đông nhốn nháo. Họ chắc lưỡi, tội nghiệp anh mù thì ít, mà tiếc con đò thì
nhiều. Ông già say vẫn thản nhiên bàn cách lấy lại con đò. Con đò vô tri vẫn
lừng lững trôi mãi. Đò không hay đang chở nặng đầy tâm sự, những ẩn tình và tin
tức của một kiếp người trót sinh vào thời ly loạn, mà chưa giúp ích được cho
đời.
PHAN KHƯƠNG THÁI
(Riêng tặng chị Nghĩa và em
Liêm)
------------------------
(1)
Đồn điền : là nơi
đồn binh án ngữ giặc. Quan binh ta khi xưa hay lựa đóng nơi địa thế hiểm yếu,
giồng án, có gò đất cao ráo để trồng trọt rau cải, ngũ cốc… làm lương thực.
Nhất là có vườn trồng cây như Gò Dâm, Gò Rùa v.v…
(2)
Truông Cóc – (3) Đường Quan : là đường sứ từ Gò
Công xuyên qua Truông Cóc đến Rạch Nhợ.
(4)
Gò Rùa : là giồng
Sơn Qui, nơi tiền đồn rất kiên cố.
(5)
Đẩu : Khi quân ta
đóng binh, thường đêm nghe ùm beng là tiếng điểm khắc giờ canh, bằng chiếc dùi
chạm vào cái điêu đẩu.
Điêu đẩu tựa cái chảo, lòng hơi sâu, làm bằng đồng thau,
có thể dùng nấu cơm ban ngày, ban đêm treo lên đánh tiếng, điểm giờ canh nơi
đồn.
Khi thất thủ, đồn và vườn đều bỏ hoang vu, cây tàn hoa
héo rủ, như buồn khóc chủ nhân xưa. Mặt nước sông như vắng lặng chia buồn, như
thầm thì thở than hoặc ầm ì tiếng sóng uất hận kêu oan.
Trước kia đường sứ rộn
rịp quan quân, nay lặng lẽ đìu hiu. Thêm đồn hoang vắng nên không còn nghe tiếng
đẩu, điểm canh ùm beng nữa.
(Chú thích theo Gò Công Cảnh Cũ Người Xưa của Việt
Cúc)