CHƯƠNG VII
THANH KIẾM BÁU
ĐỜI NHÀ LÝ
Huy rời làng Nhị Khê với
một tâm hồn mới. Hôm qua chàng tới âm thầm như một chú bé tìm đường ẩn vào
trong bóng tối. Hôm nay chàng hớn hở lên đường, sẵn sàng chiến đấu và tự tin
như đã nắm chắc phần ưu thắng.
Không biết mẹ và em còn ở
trong làng hay đã thui thủi đi sống nhờ quê ngoại? Chắc còn nấn ná chưa đi vì
rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn chẳng phải là một chuyện dễ dàng. Mẹ sẽ sung sướng
biết bao khi gặp lại mặt con và thấy lại cả một tương lai sáng sủa.
Mẹ sẽ mừng rơi nước mắt. Em
sẽ tíu tít đòi quà. Con nhỏ sẽ ngạc nhiên, mắt sáng rỡ trước những tấm bánh dầy
Quán Gánh trắng tinh. Mẹ sẽ nâng niu mớ cau khô thơm phức bác đồ gái mới phơi
xong.
Mớ cau chàng thấy chính tay
nàng Tường Vân lấy trong lọ sành ra gói ghém cho chàng. Cũng như Tường Vân đã
xuống bếp để chính tay nàng lo nấu cơm, kho thịt cho chàng ăn đường. Bất giác
chàng ngoái tay lấy chiếc khăn gói đeo trên vai xuống nâng niu.
Gương mặt trái soan người
con gái ăn mặc giả trai chập chờn trước mắt chàng. Dường như bao nhiêu cái thùy
mị của người mẹ và cái sắc sảo của người cha đều dồn cả vào con người ngọc ấy.
Dịu dàng, hiền thục, nàng lo việc bếp núc gọn gàng một cách thật dễ thương.
Nhưng khi bàn luận văn chương, võ nghệ, nàng đã biến thành một trang tuấn kiệt.
Huy nhớ như in vào óc mấy
lời tâm sự của ông đồ:
- Tường Vân tuy là gái
nhưng không thích suốt ngày vùi đầu trong xó bếp. Nó muốn ganh đua trong trường
văn trận bút cũng như ở chốn thao trường.
Bác nghĩ đó cũng là một cái
hay, nhất là ở cái thời buổi này, thái bình không hẳn thái bình, mà loạn lạc
cũng không ra loạn lạc.
Học văn, luyện võ cho tinh
chẳng phải để tranh bá đồ vương gì, nhưng cốt để trước hết giữ mình, sau nữa là
giúp đời, được phần nào trọng phần nấy.
Ông cười dễ dãi, phân trần
tiếp:
- Tất cả đám con trai làng
này đều là học trò bác. Chúng biết Tường Vân giả trai, nhưng chả đứa nào dám
gọi nó là cô Út. Người lớn, trẻ con gọi nó là cậu Út quen rồi, có lẽ bây giờ họ
yên trí Tường Vân là con trai út của hai bác…
Lòng phơi phới, Huy không
ra roi mà tưởng con ngựa ô truy đang bay bổng trên đường về.
Đến làng, trời vừa chạng
vạng tối.
Cổng nhà chưa đóng.
Ô hay! Sao lại có tiếng
ngựa hí ở trong sân? Chàng hốt hoảng lo một tai vạ nào đã đến bất thần. Và tay
chàng nắm sẵn chuôi thanh gươm mà chàng ngại phải tuốt ra trong tuyệt vọng.
- A! Anh Cả đã về!
Tiếng reo trong trẻo của cô
em gái ngây thơ khiến cho người anh nhẹ nhõm.
Tiếp theo là tiếng đàn ông
lạ hoắc:
- Ồ! Cậu Cả đã về sao? May
quá!... Tạ ơn trời, may quá!
Nhanh chân chạy ra đón
chàng là một người con trai ngoài hai mươi tuổi, cao và gầy, hai mắt như dán
vào thanh gươm vỏ đồng đen chàng đeo ở bên hông. Nỗi vui sum họp diễn ra chẳng
giống như chàng đã tưởng tượng chút nào.
Mẹ chàng mừng quá, mãi mới
thốt được một câu:
- Huy, con đã về đấy ư?
Thầy con… sao?
- Thưa đẻ, thầy con vẫn
bình yên ạ.
- Ừ, thế là đẻ mừng. Này
con, con có nhớ ai đây không? Anh cả Hoành, con trai lớn chú Hương Cựu (1) con
bên làng Phù Ủng đó.
Mừng như người bắt được
của, Huy nhẩy cẫng lên, ôm hai vai Hoành, nói liền liền:
- Ồ, thế mà em không nhận
ra, có chết không! Chú Hương vẫn mạnh khỏe hả anh? Anh sang chơi hay có chuyện
gì thế? Em về đây cũng có việc cần phải sang anh. Để cầu chú Hương đi giúp thầy
em một tay mà! May quá! Anh Cả ở chơi đây tối nay nhé. Sáng mai anh hãy về để
cho em theo với…
Bà mẹ tươi cười mắng yêu
cậu con trai:
- Cái thằng! Con hỏi dồn
hỏi dập như vậy, làm sao anh trả lời cho kịp!
Dường như cũng vui lây cái
vui của cậu trai đang độ lớn, cả Hoành thân mật bóp nắn hai cánh tay chắc nịch
của chàng và khen nức nở:
- Con nhà tướng có khác!
Mới mười lăm mười sáu mà vạm vỡ bằng người hai chục tuổi. Đeo gươm, cưỡi ngựa
thật oai, tôi trông cũng phải mê đấy!
Chợt nhớ việc mình, Hoành
thở dài nói tiếp:
- Thầy tôi vừa mắc nạn. Tôi
phải sang đây cầu cứu. Biết trước là bác trai đi vắng mà vẫn cứ phải sang hú
họa. Thật là trời thương nên xui khiến cho cậu về đúng lúc, lại mang cả thanh
gươm mà cả nhà ai cũng đinh ninh là bác đeo theo ở bên mình…
Cậu con trai đứng ngớ ra
không hiểu, bà mẹ vội đỡ lời:
- Chú Hương con bị quan
huyện bắt giam. Anh cả đây đã đào được đường vào đến ngục nhưng chưa giải thoát
được cho chú vì còn vướng những xiềng xích bằng sắt quá lớn. Anh phải sang đây
để mượn thanh kiếm báu của nhà ta.
Huy đã hiểu. Chàng buột
miệng khen:
- A! Ông trời sắp đặt thật
tài tình! Anh cả ơi, thanh gươm này có bao giờ thầy em rời ra đâu. Sở dĩ cho em
đeo là để em giữ một kỷ vật tổ truyền trong khi sống nhờ ở một quê hương xa lạ.
Ai ngờ em lại mang nó trở về quê nhà để gặp anh đây. Hôm nay, nếu anh không sang
bên này, ngày mai em cũng phải sang bên ấy…
- Có chuyện gì thế, cậu?
- Thầy em dặn sang bên Phù
Ủng cầu chú Hương chịu khó đi giúp đỡ thầy em một chuyến. Thầy em cần ngón nghề
đặc biệt của chú lắm.
Cả Hoành reo lên, vui mừng
thật sự:
- Thế thì con gì hay bằng.
Bây giờ cậu cho tôi mượn thanh gươm để đêm mai tôi ra tay cho thằng Huyện trắng
mắt ra. Xong đâu đấy, cả hai cha con tôi cùng đi theo phò tá bác…
Viễn ảnh thật đẹp. Hai tay
nhà nghề dĩ nhiên phải được việc hơn là một. Cha chàng hẳn vui lòng lắm. Nhưng
còn vướng một điều thật khó mở lời nhưng rồi cũng phải nói ra:
- Tôi nói thật thế này, anh
Cả đừng buồn nhé. Thanh kiếm này, tôi không thể cho anh mượn được đâu.
Cả Hoành choáng váng như bị
một búa giáng xuống đầu lúc không phòng bị. Y rên lên:
- Trời ơi! Sao lạ vậy?
- Anh bình tâm nghe tôi
nói. Chắc anh đã rõ thanh gươm vỏ đồng đen này do tổ tiên tôi là Đông Hải Vương
(2) truyền lại từ cuối đời nhà Lý đến nay đã hơn ba trăm năm. Đó là một thanh
kiếm báu chém sắt như chém bùn. Nhờ nó mà khi Đông Hải Vương bị họ Trần lừa, bị
vây rồi bị chém lén đến nỗi đầu sắp rụng mà còn đủ sức thoát khỏi trùng vây
chạy mấy trăm dặm về đến đầu làng An Nhân mới kiệt lực. Trước khi chết, người
dặn lại cấm ngặt con cháu về sau không bao giờ được giao kiếm báu họ Đoàn cho
người khác họ…
Không phải tôi không tin
anh đâu. Nhưng quả tình không dám trái lời di huấn mong anh hiểu cho…
Ôm đầu ngồi phịch xuống
ghế, Hoành rên rỉ, toàn thân rũ liệt:
- Trời ơi! Làm sao bây
giờ?...
- Hay là…
Hoành ngửng đầu lắng nghe,
hy vọng:
- Hay là đêm mai anh cho
tôi đi cùng, nhân thể giúp anh một tay… Phải rồi, có lẽ thế là ổn.
Hoành lo ngại:
- Sợ bác gái không cho.
Bà Đoàn khẳng khái:
- Việc chú Hương Cựu bên ấy
cũng như việc nhà bác bên này. Thằng Huy giúp được phần nào, bác mừng phần nấy.
Sao bác lại không cho?
- Con đội ơn bác. Chỉ ngại
có một điều là cậu ấy chưa quen hoạt động trong bóng tối, ở những nơi quá chật
hẹp.
Y cười hì hì bảo Huy:
- Cái ngạch tôi đào hẹp
lắm. Cha con tôi đều nhỏ người nhỏ xương chui qua được. Chả biết cậu phốp pháp
thế này có lọt được người hay không?
- Anh yên trí đi. Không lọt
cũng phải lọt. Anh lọt được thì tôi cũng lọt được.
*
Cơm nước xong, ngay đêm ấy
Hoành xin phép ra về để mẹ y ở nhà khỏi nóng lòng chờ và cũng để có nhiều thì
giờ chuẩn bị cho cuộc vượt ngục sắp tới. Y hẹn chiều hôm sau sang đón Huy.
Khách ra về một lúc lâu,
Huy nhìn em, mỉm cười hỏi:
- Thế nào, Nguyệt Cung,
bánh có ngon không?
- Ngon lắm. Cứ ăn bánh dầy
Quán Gánh là nhớ ngay đến làng Nhị Khê. Phải anh đến làng Nhị Khê thăm bác đồ
không?
- Đúng rồi. Con bé này khá
đấy. Đẻ ơi, thầy và con cùng đi vắng, nhà không có bóng đàn ông, cũng ngại. Hay
là đẻ cho con bé Nguyệt Cung mặc quần áo con trai đi. Nó có võ, giả trai dễ,
không ai dám bắt nạt.
Bà mẹ cười hỏi:
- Sao bỗng dưng thằng bé
này có ý nghĩ lẩn thẩn thế nhỉ?
- Tại vì con thấy con gái
út bác đồ…
Nguyệt Cung cướp lời anh:
- Đẹp lắm hả anh?
- Ừ, đẹp lắm. Đẹp như tiên.
Giả trai lại càng đẹp. Đúng là một trang anh tuấn.
- Chị ấy tên là gì hả anh?
- Tường Vân.
- Võ có giỏi bằng anh
không?
- Chưa biết. Nhưng chắc là
phải giỏi. Con gái út bác đồ mà. Bác dám cho cô ấy một người một ngựa đi đến ải
Nam Quan giúp đỡ thầy, nhất định cô ấy phải là một tay cừ khôi.
Chợt nghĩ đến Bùi Tung,
chàng hỏi mẹ:
- Đẻ ơi! Có điều con thấy
lạ. Tại sao chú Hương Cựu gia tư điền sản như vậy mà lại thạo nghề đào tường
khoét vách? Không lẽ…
Bà Đoàn cười:
- Thầy chưa bao giờ kể
chuyện chú Hương cho con nghe à?
- Thưa đẻ, chưa.
- Vậy đẻ kể cho hai anh em
cùng nghe. Chú Hương Cựu giầu có sẵn, của cải từ mấy đời trước để lại. Rồi vì
giầu chú mới học nghề của kẻ trộm. Và rồi cũng nhờ cái nghề mới mẻ này, chú mới
trở thành đàn em của thầy mặc dầu chú lớn tuổi hơn thầy nhiều.
…………………………………..
Có những bữa tiệc tình cờ
ràng buộc những người tứ xứ. Trong khi họp mặt, một chén rượu làm quen, một câu
nói dí dỏm hay một cuộc thách đố hung hăng có thể làm cho hai người xa lạ thân
nhau. Cả đến những ý nghĩ ngông cuồng, những cử chỉ ngông nghênh đôi khi cũng
kết hợp được hai tâm hồn đồng thanh khí.
Bùi Tung, một tay cự phú xứ
Hải Dương, và Đào Trọng Tường, một tay giang hồ khét tiếng xứ Sơn Tây, vốn
không quen biết nhau. Một sự tình cờ khiến họ trở thành đôi bạn thiết sau một
bữa cơm khách họ cùng dự và cùng quá chén.
Trọng Tường vỗ vai ông bạn
rượu ngồi kế bên, lè nhè nói:
- Chả nói giấu gì huynh, đệ
có cái tên tiền định là Đào Tường. Nguyên nó là Đào Trọng Tường, anh em giang
hồ có lòng thương bỏ bớt đi chữ lót cho nó đẹp. Đó là nghề tay trái của đệ
chuyên để trị những tên cường hào trọc phú hay quan tham lại nhũng.
Nhà kín cổng cao tường đến
đâu, đệ đào cũng lọt. Vàng bạc châu báu chôn giấu kỹ cách mấy, đệ đào cũng phải
ra. Không tin…
Họ Bùi khật khưỡng đáp:
- Người ta thường nói “Sơn
ăn tùy mặt” mà huynh. Nếu huynh có thực tài, bữa nào mời huynh ghé nhà đệ chơi
cho biết và thử xem có làm ăn gì được hay không.
Tan tiệc, họ Bùi nhất định
mời họ Đào về nhà, chỉ cho thấy chỗ cất giấu bảo vật và quả quyết:
- Đó, những cái gì quý đệ
để cả nơi đây. Huynh có giỏi, mời huynh cứ đào vào mà lấy.
- Được rồi, canh ba đêm mai
đệ sẽ tới xin huynh viên ngọc mầu hồng kia đem về cho cháu nó đeo lấy khước.
Họ Đào thật là một tay ăn
trộm có tài. Chỉ nhác trông một chút trong lúc say mà định trúng được vị trí và
phương hướng của căn phòng. Tối hôm sau, y khoét một đường thật dài, thật kín
đáo từ ngoài đồng vào, xuyên dưới hào nước, dưới lũy tre, rồi trổ lên ngay dưới
gầm giường của gia chủ.
Và y đợi đến đúng giờ tý
mới thò đầu lên.
Ai ngờ họ Bùi là một tay
nhà giầu lọc lõi. Y rất tỉnh ngủ như trăm nghìn tay nhà giầu khác. Y lại khá võ
nghệ nữa. Thành thử họ Đào vừa ra tay và chưa kịp rút lui đã bị họ Bùi vùng dậy
vật ngã xuống và khóa cứng chân tay hết đường cục cựa.
Chủ nhà cười hì hì hỏi
khách:
- Thế nào? Bây giờ huynh
tính sao đây?
- Chịu thua chớ biết tính
sao! Nhưng xin huynh nhớ cho rằng đệ thua đây là thua về võ nghệ, chứ không
phải thua về thuật đào tường khoét ngạch. Vả lại…
Y móc túi ra khoe viên ngọc
mầu hồng vừa lấy được, và nói tiếp:
- Vả lại, đệ vẫn thó được
cái này của đại huynh.
Bùi Tung phì cười khâm
phục:
- Thế là hòa! Anh em đùa
nhau một tí, huynh đừng giận nhé.
Hai người đánh chén tay đôi
đến sáng và từ đó kết thành bạn tâm giao.
Để giữ của và cũng để giữ
mình nữa, anh nhà giầu được anh ăn trộm truyền cho nghề đào ngạch. Về sau Bùi
Tung tự tay tạo cho dinh cơ to tát của mình nhiều căn hầm kín để giấu của và
nhiều lối thoát bí mật phòng khi bị đánh cướp hay bị quan quân làm khó dễ.
*
Cũng trong một bữa tiệc, họ
Bùi và họ Đào nói ba hoa xích đế, tưởng chừng như khi nào hai gã đã “liên thủ”
làm ăn thì đến ông trời cũng không giữ được của.
Ngứa tai, họ Đoàn cho chúng
một bài học khiêm nhường và thận trọng.
- Tôi biết, hai chú giỏi
lắm. Nhưng liệu hai chú có vào nổi nhà tôi mà lấy đồ không?
Bùi Tung cười khành khạch:
- Nhà bác trống trước trống
sau, vào lúc nào mà chả được! Nhưng, em xin lỗi bác, em nói thật. Nhà bác
“tiếng cả nhà không”, có gì đâu mà lấy!
Đoàn Phong nghiêm mặt nói:
- Ừ, tiền bạc ta không có
thật, nhưng vật báu thì ta có chứ.
Cả bàn tiệc cùng ngạc
nhiên. Đoàn Phong vỗ vào thanh kiếm đeo ở bên hông, gằn giọng hỏi:
- Thanh gươm này có phải là
một bảo vật không?
- Dạ phải. Nhưng chúng em
không dám.
- Không sao. Kiếm này là
vật báu gia truyền của họ Đoàn. Nhưng nếu họ Đoàn bất tài không giữ nổi thì đâu
có xứng đáng giữ nó hoài. Các chú xem có thể lấy được, cứ lấy!
Bị khiêu khích, hai gã thấy
ngứa nghề:
- Đàn anh đã thương mà dậy
thế, đàn em chẳng lẽ không vâng. Vậy đêm mai, đúng giờ tý, chúng em xin đến bái
lĩnh.
- Ừ, cũng được. Nhưng sợ
gấp gáp quá chăng? Tôi muốn cho các chú rộng thì giờ và thuận tay thuận chân
hơn. Vậy kể từ ngày mai, trong vòng năm hôm, các chú muốn lấy lúc nào cũng
được, không cần phải hẹn giờ. Nếu cần dùng đến mê hồn hương, các chú cứ tự
nhiên…
Ái chà! Thế thì ăn chết
rồi! Chạy trời cũng không thoát khỏi hai tay này! Mày đã muốn ngông, chúng ông
cho ngông một thể! Chỉ sợ lúc ấy mới trớn mắt ra! Họ mừng rơn đáp:
- Vâng. Đàn anh dậy sao,
đàn em cũng xin tuân.
Đoàn Phong cười hề hề:
- Suýt quên không dặn kỹ để
hai chú mất công tìm. Ban đêm, ta để kiếm trên bàn thờ gia tiên.
Hai chú nên cẩn thận. Ta
nằm ngủ ngay trên sập kê trước bàn thờ đó.
- Dạ. Xin đàn anh yên trí.
Đúng nửa đêm hôm ấy, hai gã
trổ hai đường tới hai bên bàn thờ cùng một lúc và cùng xông hương mê vào trong
gian nhà không mấy rộng. Họ cùng thò đầu lên khi họ Đoàn nằm ngủ ngáy như sấm.
Đoàn Phong nằm, đầu quay về
phía bàn thờ. Trước hương án, có một tấm màn bằng vải điều che kín. Trong đêm
tối, hai gã có ý đứng vào chỗ khuất nhất, dẫu ông có thức cũng khó lòng trông
thấy họ xuất hiện. Nói chi đến việc ra tay cản trở!
Họ đâu có ngờ Đoàn Phong có
một bản lĩnh siêu phàm.
Luyện võ từ tấm bé cho đến
già đời, ông rất thính tai, tinh mắt và tỉnh ngủ. Tiếng động trong lòng đất đã
đánh thức ông từ lâu. Mới thoảng thấy mùi thơm của hương mê, ông đã nằm yên
nhịn thở, hé mắt trông chừng trong đêm tối.
Căn cứ vào tiếng động, ông
tính đúng lúc hai gã kia sắp vói tay lên chiếc mâm bồng đựng thanh kiếm báu.
Ông quát lên một tiếng như sét đánh, cướp tinh thần hai gã.
Không biết ông tung mình
trở dậy cách nào và xông xáo ra sao mà khi hai gã hoàn hồn đã thấy tay mình bị
nắm cứng như nằm trong khóa sắt.
Họ bội phục:
- Đàn anh thánh thật. Nằm
ngược chiều như vậy mà ra tay gọn quá!
- Các chú thua không phải
vì kém tài đào ngạch mà vì thiếu bản lĩnh giang hồ.
Không tinh thông võ nghệ,
nhiều khi các chú vào được nhà người ta mà không ra nổi.
………………………………………….
Bà Đoàn kể tiếp:
- Từ đấy, hai người học võ
nơi thầy con. Chẳng những luyện võ mà thôi, thầy con còn luyện thêm cho họ cái
“căn” lương thiện nữa.
Huy cười:
- Bây giờ con mới hiểu vì
sao chú Hương Cựu già hơn thầy đến mười tuổi mà vẫn xưng em.
- Ừ, thầy con đãi họ bằng
tình anh em. Ngoài ra, còn có thêm cái tình thầy trò nữa. Cho nên hễ thầy con
ới lên một tiếng là họ phải thưa liền…
Ngẫm nghĩ một lát, bà nói
thêm:
- Việc của thầy con, giá có
cả chú Tường giúp thêm một tay nữa thì hay biết mấy!
- Vâng. Nhưng sao con không
thấy bác đồ nhắc đến tên chú Tường, đẻ ạ.
- Chắc tại bác biết chú ấy
đi lang bạt kỳ hồ, không ở hẳn một chỗ nào thì biết ở đâu mà tìm kiếm.
_______________________
(1) Hương
Cựu : Cựu Hương Trưởng.
Ở thôn
quê, người ta kiêng gọi tên tục những người lớn tuổi và dùng những chức tước,
dù là chức cũ, gọi thế vào.
(2) Đầu
đời nhà Trần, Đoàn Thượng muốn khôi phục giang sơn cho nhà Lý, đã chiêu quân
nuôi ngựa, chiếm lấy một châu và tự xưng là Đông Hải Vương.
CHƯƠNG VIII
BÙI TUNG VÀ ĐÀO
TƯỜNG
Huy thắc mắc hỏi mẹ:
- Anh cả Hoành có nói vì
sao chú Bùi bị bắt bỏ ngục không hả đẻ?
- Có. Việc không hay xẩy ra
chỉ vì chú ấy quá giầu và tên quan huyện quá tham lam.
- Thưa đẻ, nghĩa là sao ạ?
- Tên huyện quan này có
thần thế lớn ở Kẻ Chợ nên hống hách và ngang ngược lắm. Y cũng gian xảo nữa nên
đánh lừa chú Hương Cựu một cách thật dễ dàng.
Y cho trát đòi chú tới công
đường hỏi:
- Phải chú có tài đào ngạch
nổi tiếng ở xứ này không?
Bùi Tung ngang tàng đáp:
- Dạ phải.
- Bây giờ ta nhốt chú vào
một chỗ, liệu chú có cách nào thoát được không?
- Cho tôi một cái thuổng
thật sắc, tôi sẽ thoát như chơi!
Tên huyện quan cười nham
hiểm:
- Được lắm! Nói lời thì nhớ
lời nhé. Ta sẽ cho chú một cái thuổng thật tốt. Nếu không ra thoát cũng đừng
oán ta nhé.
Y sai người nhốt chú Hương
vào một nơi chẳng lấy gì làm ghê gớm lắm, đặt bên mình chú một cái thuổng mới
tinh thật bén. Ác cái là y lại xiềng tay xiềng chân chú bằng dây xích sắt thật
to. Thế thì còn làm ăn gì được nữa! Chú Hương tức đến hộc máu vì thấp cơ thua
trí, không nói cho rành. Đáng lẽ chú phải giao hẹn với y:
- Cho tôi một cái thuổng
thật bén và phải để tay chân tôi được tự do…
Bà nói thêm:
- Nếu không có thằng con là
cả Hoành ở ngoài chạy vạy thì chú phải chết rục xương trong căn nhà ẩm thấp.
Một ngày một đêm không thấy
cha về, nó cuống lên. Phải vãi tiền ra mua chuộc bọn nha lại, nó mới biết chỗ
giam. Rồi nó âm thầm đào ngạch vào thăm cha mới hay chú ấy bị xiềng quá chắc.
Nếu không có thanh kiếm của nhà ta, chắc không tài nào chặt được xích.
- Anh cả Hoành có dò hỏi
được ý định của tên huyện quan không hả đẻ?
- Có. Đẻ đã bảo tai vạ của
chú Hương do cái giầu của chú ấy mà ra.
Tên ăn cướp ngày kia thấy
tài sản của chú nhiều vô kể nên động lòng tham muốn vơ vét một chuyến cho thật
bẫm. Y gian ngoan lập kế lừa cho chú lọt vào tròng. Chú có gan cách mấy cũng
chỉ chịu đựng được vài hôm nữa thôi. Rồi phải xin chuộc mạng, không thì chết.
Và muốn khỏi chết, chỉ có mỗi một cách là có bao nhiêu của cải phải dâng cho kỳ
hết!
Huy tắc lưỡi, lẩm bẩm một
mình:
- Quá lắm! Phải trừng trị
tên tham quan này một vố mới xong!
*
Hai anh em cùng mặc đồ đen
trườn mình trong những ngách hang nhỏ hẹp. Họ lách lên phòng giam không mấy khó
khăn. Quân lính canh phòng lấy lệ dĩ nhiên không hay biết.
Thanh gươm báu được tuốt
ra. Ánh thép xanh dờn và lạnh lẽo xắn vào xiềng sắt ngọt như xắn vào những củ
khoai.
Bùi Tung chân tay được tự
do nhưng toàn thân y lả ra chẳng khác chi người sắp chết. Y bị bệnh kiết lỵ
hành hạ suốt một ngày trời, không thuốc thang, không cơm nước.
Hoành nghiến răng căm tức
muốn liều mạng xông ra tìm tên huyện quan gian ác, thí cho y một nhát.
Huy nắm tay cản lại, thì
thào:
- Hãy đưa chú Hương về nhà
phục thuốc đã. Việc ấy tính sau, vội gì!
Sau khi ra khỏi vùng hắc
ám, Huy bàn:
- Bệnh chú Hương đang cơn
nguy kịch, chắc chú không ra trận được với thầy tôi đâu. Ở nhà, tên chó má kia
dĩ nhiên chả chịu để cho chú yên thân. Ta phải nghĩ cách đối phó trước.
Giết nó bây giờ thì dễ,
nhưng sợ liên lụy đến chú và toàn gia. Chi bằng hãy dọa cho nó sợ một mẻ đã.
Thấy có người ở ngoài phù trợ, nó khôn ngoan ắt không dám lôi thôi nữa.
Hoành chịu là phải, ứa nước
mắt cõng cha về trong khi Huy nhẩy thót qua tường, vượt một khu vườn rộng và
lẻn vào công đường mà không một ai hay biết. Sau khi lục lọi một hồi, chàng
lách mình ra khỏi nơi làm việc của huyện quan để phi thân vào trong tư thất của
y. Tên này đang ngủ say như chết.
Thật khéo léo, chàng đặt
ngay trên đầu giường tên tham quan mấy khúc xiềng xích đã cắt đứt, cái thuổng
bén ngót và chiếc ấn huyện quan của y.
Thoát ra khỏi cửa chàng mỉm
cười tự nhủ:
- Thức dậy, thế nào tên này
cũng sợ hết vía! Nó sẽ hiểu: Tương lai cũng như tính mạng của nó, người ta đã
cầm ở trong tay, muốn lấy lúc nào cũng được. Khôn hồn thì đừng có sinh sự nữa…
Phải rồi, đây không phải là một chuyện thách đố. Răn đe thì đúng hơn… Hừ! Vía
bảo cũng không dám kiếm chuyện lôi thôi nữa!
*
Mới tờ mờ sáng Bùi Tung đã
giục hai người trai trẻ lên đường:
- Tôi đã đỡ, không có gì
phải lo ngại cả. Chỉ tiếc có một điều là không đủ sức đi giúp bác Đoàn trong
lúc này. Đành để cho thằng Hoành đi thay vậy. Việc dẹp giặc là trọng, cậu phải
đi ngay kẻo bác Đoàn mong.
Hai ngựa ruổi rong mang
trên yên hai người với hai tâm trạng.
Hoành mặt mũi đăm chiêu,
nửa lo chuyện nhà, nửa lo ngại tài của mình còn non không giúp được bác Đoàn
như ý muốn.
Huy, trái lại, lòng vui
phơi phới. Ánh mặt trời và gió mát đã rửa hết những nét mệt nhọc trên gương mặt
khôi ngô sau một đêm thiếu ngủ. Chàng sắp gặp lại cha, người mà cách đây vài ba
hôm chàng tưởng phải chia lìa mãi mãi.
Chàng sắp gặp mặt Tường Vân
mà chàng nhớ thầm từng nét, từ đôi mắt, cặp môi cho đến cái mũi, hai gò má. Cả
tiếng sáo vi vu, cả tiếng cười như gieo ngọc. Cả lối vung tay thảy đáo, cả nét
tung mình bay nhẹ lên yên, mỗi mỗi đều là một ray rứt dịu dàng, một nhớ nhung
thấm thía.
Đến Bắc Giang, hai người
bắt kịp đoàn quân.
Người thứ nhất Huy gặp là
người chàng mong nhớ nhất. Tường Vân đang cho ngựa đi bước một ở hàng sau chót
để mắt vào những xe lương và những xe chứa đồ dẫn hỏa. Huy sung sướng nghĩ đây
là một điềm thật lành. Chàng reo lên:
- Cậu Tường Vân!
- A! Anh Huy!
Hai người mừng rỡ, hỏi thăm
nhau vồn vã.
- Thầy tôi vẫn mạnh chứ,
cậu?
- Vâng, chú đang ở trung
quân.
- À, hai chú ở làng Gióng
đã đến chưa?
- Rồi. Phải đi tới nơi
triệu ngay ngày hôm ấy. Hai chú đang đốc thúc lính tráng ở tiền quân. Lát nữa,
ăn cơm anh sẽ gặp. Còn ở làng Phù Ủng bao giờ mới tới?
- Chú mắc bệnh không đi
được. Cho con trai là anh cả Hoành đây đi thay.
Chàng giới thiệu luôn:
- Còn đây là cậu Tường Vân,
con út của bác đồ làng Nhị Khê.
Hai người nghiêng mình thi
lễ. Trong thoáng giây, Hoành cảm thấy bao nhiêu cái kém cỏi của mình. Ối chao!
Người đâu mà tuấn tú, hiên ngang đến thế! Tưởng cậu Đoàn Huy đã là nhất rồi, ai
ngờ còn thua xa cậu này. Ờ, con nhà tông có khác, mới tí tuổi đầu mà xem chừng
đã tinh thông cả văn lẫn võ. Rồi y tự an ủi: Trong thiên hạ, đâu phải ai cũng
là dòng dõi của ông Nguyễn Trãi!
*
Hai hôm sau đến địa đầu xứ
Lạng, trời mưa suốt ngày như trút nước.
Đoàn Phong phải cho tạm
đóng quân lại đợi cho mưa ngớt hột.
Mấy vị bô lão địa phương cố
mời kỳ được vị chủ tướng vào tạm trú trong đình làng. Và họ thành tâm dọn rượu
thết đãi, từ chối thế nào họ cũng không nghe.
Rượu được vài tuần, một cụ
già nhất đám vuốt chòm râu bạc hỏi:
- Tướng quân trị binh rất
nghiêm. Bọn dân hèn chúng tôi quý mến và kính phục lắm. Nhưng lão hỏi thế này
khí không phải, xin tướng quân thứ lỗi. Sao quân ta ít thế? Lão thấy lèo tèo có
chừng vài nghìn. Trong khi đó, lão nghe như quân Tầu sắp xua sang nước ta những
mười vạn…
Đoàn Phong ngấm ngầm phục
ông lão có đường dây tin tức thật chính xác.
- Vâng. Quân ta quả có ít.
Và giặc quả thật đông. Nhưng, thưa cụ, quân quý hồ tinh thôi ạ. Đông mà không
tinh, chưa chắc đã thắng.
- Đành vậy rồi. Nhưng ít
quá coi sao được. Lão sợ không đủ dùng. Hay tướng quân có cần mộ thêm lính, để
lão giúp cho.
Đoàn Phong chắp tay cảm tạ:
- Cám ơn cụ có lòng giúp
đỡ. Nhưng tôi không dám nhận lời vì không muốn phí phạm xương máu của anh em.
Ông cụ cười ha hả:
- Lão hiểu rồi. Tướng quân
binh ít mà lòng vẫn vững, chắc đã định sẵn trong bụng một kế sách vẹn toàn.
Theo lão trộm nghĩ…
Cụ đặt chén rượu xuống
thành mâm, ghé tai nói nhỏ:
- Không gì bằng đánh hỏa
công!
Đoàn Phong giật nẩy mình.
Không thể đây là người của giặc sai đến dò la hư thực. Nhưng không lẽ một người
dân tầm thường ở xó rừng núi cũng thạo phép dùng binh. À, có lẽ ông cụ già sống
lâu năm ở cõi biên thùy nên từng trải.
Không say rượu, vị hổ tướng
họ Đoàn nghe nóng bừng cả mặt. Ông cảm thấy hổ thẹn. Thì ra từ con người có tài
quán thế là ông đồ làng Nhị Khê, đến một ông lão vô danh ở xứ Lạng này cũng
biết trận này phải dùng phép hỏa công. Thế mà thân ta làm tướng lại như người
mù đi trong đêm tối, một hai lấy cái chết vô bổ ra để trốn trách nhiệm.
Cũng may là có bác Long Vũ
mở mắt cho ta, không thì chết phen này thật uổng!
Ông ậm ự trước khi hỏi lại
ông lão:
- Ai bầy cho cụ mưu ấy thế?
- Có ai bầy bảo gì đâu! Lão
đã tám mươi tuổi đầu, già đời sống ở đây trải qua biết bao nhiêu cuộc quấy
nhiễu của quân Tầu nên lão biết. Quân ít muốn đánh được quân nhiều thì phải nhờ
vào sức lửa giúp đỡ.
Ông cụ kết luận:
- Nói gần nói xa chẳng qua
nói thật. Lão có nhiều đồ dẫn hỏa. Con cháu lão buôn thứ đó mà, tướng quân cần
để lão giúp cho.
Đoàn Phong trả lời bằng một
lời nói chân tình:
- Tôi cũng nghĩ như cụ và
đã dự bị đầy đủ. Cụ cho, thật quả tôi không dám nhận.
- Biết thế nào là đủ! Tướng
quân cứ nhận cho lão vui lòng. Vui vì đã được góp một phần nhỏ bé vào cuộc
chiến thắng.
Sực nhớ đến một việc, đoàn
Phong bỗng thấy kém vui. Bên địa lôi đủ rồi, nhưng bên địa đạo yếu quá. Cả
Hoành chưa có kinh nghiệm không biết có đóng nổi vai trò dành cho cha y không?
Chợt có quân vào báo:
- Bẩm, có người muốn gặp
mặt chủ tướng mà không chịu xưng tên. Hiện đang chờ ở chòi canh bên sườn núi.
- Ở đâu tới? Mặt mũi ra
sao?
- Thưa, ông ta tuổi ngoài
năm mươi, ăn mặc quê mùa nhưng cưỡi con ngựa thật khỏe. Ngựa phóng như bay trên
quan lộ từ phía Bắc Giang lên. Vừa đến chòi canh thì con ngựa mệt quá lăn ra
chết. Quần áo mặt mũi ông ta lấm be lấm bét.
Chưa kịp chạy ra xem ai đã
thấy cả Hoành hớn hở dẫn người lạ mặt vào.
Đoàn Phong đứng bật dậy,
reo to khiến các cụ ngồi quanh mâm rượu giật nẩy mình:
- A ha! Chú Tường! Trời
giúp ta thành công chuyến này đây!
Ông vỗ vai người mới tới:
- Cám ơn chú đã đến giúp
anh. À, sao chú biết anh ở đây mà tới?
Bưng chén rượu cạn một hơi,
Tường khà một tiếng khoan khoái, bao nhiêu nỗi vất vả dọc đường bay biến hết:
Em nghe tin anh Bùi Tung bị
tên huyện quan làm khó dễ nên đến Phù Ủng định giúp anh ấy một tay. Tới nơi mới
hay bác đang cần đến bọn em. Thằng Hoành đã lên đường với cậu Huy được mấy ngày
rồi. Anh Bùi giục em phải đi gấp ngày đêm kẻo không kịp.
Trước khi tiễn đoàn quân
lên đường, cụ già xứ Lạng còn ân cần dặn:
- Bây giờ đang mùa gió nồm.
Tướng quân phải tính làm sao đánh cho sớm. Đừng để nấn ná đến mùa Đông có gió
bấc mới ra quân mà chết thiêu cả đám đấy!
Thôi, lão chúc tướng quân
thành công lớn. Ở nhà, lão nấu sẵn rượu khao quân đây.
_______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG IX, X