Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024

Thế Giới Thần Tiên Của San Hô

 

Mùa Noel 1492, con tầu chỉ huy Santa Maria của Christoph Colombe trên đường thám hiểm Mỹ Châu đã bị vỡ tan tành từng mảnh gần mũi Hải Tiên (Haitien) vì va phải đá ngầm. Nhờ tai nạn này mà thế giới mới biết đến thế giới thần tiên của San hô.

Đối với những tay thợ lặn thì đây là một phần thế giới kỳ diệu nhiệm mầu. Một thế giới của muôn mầu, muôn hình vạn trạng, sống động, nhộn nhịp, lung linh huyền ảo... Đây cũng là một thế giới xây dựng bằng hàng tỷ, hàng triệu sinh vật đủ mọi trạng thái mềm, dẻo, cứng... chồng chất lên nhau hàng hàng lớp lớp. Ta muốn cho nó bằng nhung cũng được! Bằng sứ cũng không sai. Bằng những sợi tóc của thiên thần càng có ý nghĩa! Bằng tinh thể của đường cát trắng hay bằng những cánh hoa rực rỡ muôn mầu? Không sao! Phải nói là san hô có muôn vẻ ngàn hình không thể tả xiết.

Loài thạch tàm này là những nhà kiến trúc siêu việt! Nó đã tạo dựng nên những kỳ công tuyệt phẩm trước khi con người biết kiến tạo. Những lâu đài tráng lệ nguy nga của các bạo chúa xây trên ngàn vạn sinh linh từ ngàn xưa tới nay so với san hô cũng chỉ là những kiến trúc tầm thường, những công trình của các chú lùn nhỏ bé. Các nhà sinh vật học đặt cho loài thạch tàm này một cái tên tuy kém vẻ thơ mộng nhưng đúng với sự kiến tạo của nó: "Loài rỗng ruột". Từ xa xưa, người ta cho rằng san hô chỉ là một loại cây sống ngầm dưới nước, ai có ngờ đâu chính nó là những sinh vật nhỏ bé kết tụ lại và mầu sắc thay đổi tùy theo địa phương: San hô ở Nhật mầu trắng như men sứ, ở Địa trung Hải mầu hồng thế nhưng ở Hạ uy di và Biển đỏ nó lại đen nhánh như than đá.

Giải phẫu một con san hô chúng ta thấy nó là loài ăn thịt, toàn thân chỉ là một ống thịt, có một túi tiêu hóa duy nhất dài chừng vài mi li mét, có những đường rãnh hướng vào tâm gọi là xoang trường. Trên đầu là một hấp khẩu lọc ra như đài hoa, cánh hoa chính là những tay mảnh khảnh rất hoạt động sẵn sàng thâu bắt những vi khuẩn bơi lội, bén mảng đến gần. Chúng tiêu hóa và lại nhả ra ngay bằng chính hấp khẩu. Hấp khẩu này cũng chính là nơi sinh sản, gieo giống... Phía dưới là chân dính chặt vào một cái bệ hình cái đĩa bằng đá vôi. Đĩa này lại cũng dính chặt vào một vật cứng như đá ngầm nhưng thường thì dính vào các khối san hô đã chết. Khi còn non san hô giống như những loài sứa hay ấu trùng có vẻ tự do nhưng bám chặt vào nơi nhất định nào đó. Cũng có những loài san hô đơn độc không liên kết thành từng khối. Loài này sinh sản mau lẹ và thường hướng theo chiều thẳng đứng vươn lên tìm nơi ánh sáng mặt trời.

Có bao nhiêu khối san hô trong các đại dương? Không ai có thể trả lời được, nhưng về phương diện kiến trúc thì Vạn lý trường thành, Kim tự tháp... sánh với san hô chẳng thấm vào đâu. Tất cả các đại dương đều có mặt san hô dù dưới hình thức này hay hình thức khác nhưng với điều kiện nước biển ấm và dưới một độ sâu từ 10 - 15 thước. Có ánh sáng mặt trời. Độ ẩm lý tưởng nhất cho san hô là 20 độ bách phân và phát triển mạnh nhất ở vĩ độ 28 Bắc và 28 Nam. Nơi nào có bùn, cặn, nước đục san hô sẽ chết ngộp liền.

Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao san hô chỉ sống được ở độ sâu tối thiểu, cần ánh sáng mặt trời và nước trong? Trong khi đó có những sinh vật tương tự như loài sao biển lại có thể sống và phát triển được ở dưới độ sâu cả ngàn thước.

Theo Darwin, một nhà sinh vật học danh tiếng, khi khảo sát về loài này đã nhận định như sau:

Có 3 loại san hô:

- San hô mọc từ triền bờ biển.

- San hô đảo.

- Vòng đai san hô.

Cả ba loại đều bắt nguồn và đặt nền móng trên những lớp san hô già chết từ xa xưa và bây giờ các lớp mới mọc chồng. Lớp già cũ lâu dần chìm xuống đáy biển. Cũng có khi đáy biển bồi lấp và mực nước dâng lên. Do đó san hô bây giờ chỉ là cái ngọn hay nói cách khác là các chóp san hô tăng trưởng, lan rộng hướng về nơi có ánh sáng mặt trời. Như vậy san hô không phải loài sinh sống ngầm dưới đáy biển mà vốn ở một độ sâu nào đó mà thôi!

Khoa học ngày nay đã xác nhận sự phán quyết của Darwin bằng cách thám hiểm sâu dưới 1200 thước, nơi có san hô sinh sống đã thấy rằng san hô đều bám trên các tảng núi lửa hay những đồi núi ngày xưa đã bị vùi lấp chìm dần xuống đáy biển. Một bằng chứng cụ thể là người ta đã khám phá ra rất nhiều đảo san hô trong vùng biển Thái Bình Dương ở Pô-ly-ne-di (Polynesie) vừa mới trở thành các đảo san hô bao quanh vịnh Ca-ra-ít (Carait) là những cồn san hô nổi tiếng, nơi đây đã trở thành nghĩa trang chôn vùi biết bao thuyền tàu thời trung cổ. Dãy san hô Gờ-răng-băng (grand Banc) thuộc hải phận Ba-ha-mat (Bahamas) rộng lớn đáng kể. Dãy san hô chạy dài hàng mấy ngàn cây số, rất đẹp, hùng vĩ nhất thế giới chạy dọc theo bờ đại lục Úc Châu và phát triển rất mạnh nhờ có dòng gulf stream nuôi dưỡng.

Cũng như tất cả các sinh vật khác rất vất vả để đấu tranh giành quyền sống, cuộc chiến đấu liên tục không ngừng ngày đêm đã diễn ra cho dòng dõi nhà san hô. Kẻ phá hoại ghê gớm là các làn sóng và các triền nước rớt xuống biển từ các lục địa làm trôi dạt san hô và nhất là giảm bớt lượng muối cần thiết cho san hô con tăng trưởng. Sau, phải kể đến các động và thực vật cũng xúm nhau vào tàn phá hủy hoại chúng. Loài cá mỏ vẹt không ngừng quấy phá, nó cùng cái mỏ cứng như sắt bẻ gẫy các nhánh san hô và nhai ngon lành như không! Ngoài ra còn một số kẻ thù khác cũng không kém phần quan trọng chuyên ăn bám vào san hô cả một đời!

Tuy nhiên, để bù lại tạo hóa đã cho san hô dòng dõi thạch tàm này một năng lượng sản xuất rất kinh khủng nên cuộc chiến bao giờ cũng nghiêng phần thắng về cho san hô. Chúng cũng còn có những phương cách khác để bảo vệ mầm non như tạo nên những hang động để tránh sóng, những cụm san hô lửa sẵn sàng đốt cháy kẻ thù nào cọ sát, phá hoại...

Cái vẻ muôn mầu rực rỡ huyền diệu ấy cũng là nơi dung thân cho một số cá mỗi khi gặp biến loạn! Cũng như nuôi dưỡng chúng suốt đời sung túc. Những loại cá thu, cá hồi, cá mập, cá nhám có thân mình thon gọn, vây ngắn, mỗi khi có báo động là chui tọt vào cung điện nguy nga rất an toàn. Cũng có những loại cá ranh mãnh hơn lẩn quất trong các cụm san hô để ngụy trang đổi mầu cho dễ săn mồi như loài cá Đi-ô-đông (Diodon) từ một làn da trắng trơn chúng đổi thành lốm đốm trông như những con beo biển tiệp với mầu san hô để đánh lừa con mồi ngu ngốc bén mảng tới gần. Những con cá vằn vện cũng sống nhờ ở các khóm san hô!

Đối với các tay thợ lặn thì đây là một thế giới đầy lạ lùng, mầu sắc rực rỡ, tô điểm cho lòng đại dương. Họ cho đây là một thế giới của thần tiên. Các sắc dân sinh sống ở đây thật nhàn hạ sung túc, về ban đêm thế giới san hô càng trở nên linh động lạ lùng mà con người chưa thể tìm hiểu được bao nhiêu điều kỳ bí của nó.


HUY YÊN       
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 82, ra ngày 25-3-1973)
 

Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2024

Chỉ Phải Tiến Từng Cây Số Một

 

Hồi đó tôi mới mười bảy tuổi và… bị một cơn sợ ghê gớm. Anh bạn học Walter port và tôi cùng nhau lao vào một cuộc mạo hiểm kỳ thú nhưng cũng thật là ngu xuẩn: chúng tôi muốn cho biết rằng có thể chèo một chiếc xuồng nhẹ từ Minneapolis tới điểm bán da lông của hãng York trên vịnh Hudson. Chúng tôi đã chèo tới được Norway House ở phía cực bắc hồ Winnipeg. Từ đó còn phải chèo một quãng dài 725 cây số nữa qua một miền hoang vu, chỉ gặp được một thị trấn nhỏ ở dọc đường. Những bản đồ chúng tôi mang theo đều sơ sài quá mà hôm đó đã là ngày mồng một tháng chín!… Sông hồ sắp đóng băng.

Nhân viên cảnh sát Gia nã đại do dự không muốn cho chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình và sau cùng cũng miễn cưỡng cho phép chúng tôi. Cả đêm trước ngày khởi hành chúng tôi thao thức, nghĩ tới nỗi gian nan dọc đường, nửa sợ nửa tự ái. Nếu bị chìm xuồng hoặc bị mắc kẹt vì nước đóng băng thì không hy vọng gì thoát chết được. Mà nếu bỏ nửa chừng thì còn mặt mũi nào trông thấy gia đình, bạn bè nữa?

Tòa soạn nhật báo ở Minneapolis tường thuật từng giai đoạn cuộc hành trình của chúng tôi, chủ ý để nêu tên tôi trong bước đầu vào nghề viết văn, sẽ khinh bỉ chúng tôi ra sao? Và chính Walter và tôi sẽ có thái độ ra sao khi làm cho mọi người thất vọng như vậy?

Lúc khởi hành, một thợ săn Đan Mạch lực lưỡng tới chúc chúng tôi « thượng lộ bình an ». Ông siết chặt tay chúng tôi bảo:

Các cậu chỉ nên nghĩ tới cây số trước mặt thôi, đừng bận tâm đến những cây số ở xa hơn nữa nhé. Như vậy thì sẽ tới đích được.

Tôi chưa bao giờ nhận lời khuyên chí lý như lời khuyên đó.

Biết bao lần, ban đêm, tôi trằn trọc, lăn qua lăn lại trong cái xắc-mền lạnh buốt, lo lắng về quãng đường dài dằng dặc phải vượt qua mà nhớ lại lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó! Trong bao nhiêu ngày chèo chống lặn lội, khiêng xuồng và đồ đạc, chúng tôi đã có dịp nghiền ngẫm về lời khuyên đó, tinh thần chúng tôi thấm nhuần lời khuyên đó. Chúng tôi chỉ nghĩ tới cái thác ở phía trước, tới chỗ cắm trại ở phía trước, tới cây số ở phía trước thôi.

Sau cùng, một đêm tối như mực, chúng tôi đã vượt được cây số cuối cùng. Bẩn thỉu, mặt mày hốc hác, quần áo rách tươm, lương thực gần hết nhẵn, chiếc xuồng hư nát tệ hại, chúng tôi lết lên bờ, trong luồng ánh sáng vàng vọt từ điểm bán hàng của hãng York chiếu ra.

Từ hồi đó, tôi có nhiều dịp nhận thấy lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó rất đúng: chỉ phải tiến từng cây số thôi. Chẳng hạn, mười ba năm sau, trong thế chiến thứ nhì, tôi và vài anh bạn ngồi trong một chiếc phi cơ chuyên chở của nhà binh. Chúng tôi đang bay trên khu rừng biên giới Ấn độ-Miến điện thì máy bay hư, chúng tôi phải nhảy dù xuống. Nếu có đoàn cấp cứu nào được phái tới thì cũng phải mất hàng tuần mới tới chỗ của chúng tôi. Vì vậy chúng tôi không thể nào đợi được, đành cực khổ len lỏi lần lần về phía Ấn độ, vượt quãng đường 225 cây số, qua một miền núi non hiểm trở, dưới ánh nắng cháy da và những trận mưa tầm tã.

Chúng tôi vừa khởi hành thì chẳng may, chân tôi bị thương vì chiếc đinh trong giày; buổi tối đó, hai bàn chân tôi phồng lên, rướm máu. Khập khiễng như vầy thì làm sao vượt được hơn hai trăm cây số? Mà các bạn tôi có anh tình trạng còn bi thảm hơn tôi, làm sao đi được cho tới hết đường? Không ai tin rằng sẽ tới nơi được. Không đi hết đường được, nhưng ít ra cũng khập khiễng lết tới đỉnh đồi phía trước, tới làng xóm phía trước tìm một căn nhà xin tá túc; và chúng tôi chỉ mong được bấy nhiêu thôi.

Óc tưởng tượng là một con dao hai lưỡi: nhờ nó mà có những công trình lớn lao nhưng cũng vì nó mà lòng can đảm của ta nhụt đi, không thực hiện được những công trình đó. Tôi vốn nhút nhát và đôi khi tự biện hộ vì tôi có óc tưởng tượng mạnh, dễ thấy những nguy hiểm sẽ xảy ra nên không được bạo gan. Cho nên đã nhiều lần, khi gặp gian nan về thể xác hay đau khổ về tinh thần, tôi phải nhớ lại quy tắc: “cây số ở trước mặt” rất hữu ích đó.

Ngày tôi bỏ chỗ làm có lương cố định để bắt đầu viết một cuốn sách dài hai trăm năm chục ngàn tiếng, tôi rán không để cho công trình lớn lao đó thôi miên tôi. Nếu không, chắc chắn tôi đã phải bỏ dở một tác phẩm làm cho tôi vinh hãnh nhất trong nghề cầm bút của tôi. Tôi rán chỉ nghĩ tới đoạn sau thôi, không nghĩ tới trang sau nữa, lại càng không nghĩ tới chương sau nữa. Thành thử trong sáu tháng tôi chỉ viết từng đoạn từng đoạn một. Và tôi phải thú thực rằng, tác phẩm đó “tự nó thành hình.”

Mới mấy năm trước đây, tôi nhận mỗi ngày phát thanh một bài cho một đài nọ. Tới hôm nay, những bài tôi phát thanh đạt tới con số hai ngàn. Nếu hồi đầu, người ta bảo tôi phải ký hợp đồng cung cấp hai ngàn bài thì chắc tôi đã thụt lùi không dám nhận công việc lớn lao đó. Nhưng người ta chỉ đòi hỏi tôi mỗi ngày một bài thôi và tôi cũng chỉ soạn mỗi ngày một bài thôi.

Đức kiên nhẫn có thể thay đức cam đảm được và theo tôi, không có hình thức kiên nhẫn nào bằng hình thức mà người thợ săn Đan Mạch đã khuyên chúng tôi nhớ kỹ rằng chỉ phải tiến từng cây số một.

 

 Tác Giả: Eric Sevareid
Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch

 

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2024

Thật Bình Yên

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
rồi áo trắng bay ngập lối đến trường
như buổi sáng em cúi đầu trong sương
trên cao chim buồn không lên tiếng hót
cho dấu chân hồng êm đềm tơ vương

em đâu còn nhớ buổi chiều rất xa
mây cứ vương tơ trên lối ngọc ngà
em đi rất chậm ngỡ hồn chùng xuống
nắng như ngủ yên trong vùng bao la

không có mưa rơi cho em thấy buồn
ngày thật hiền hòa êm như gác chuông
có lời thánh ca vút cao cung điệu
rồi như hòa vào tiếng hót chim muông

em có hay ngày tháng trôi bình yên
giữ mãi cho em bờ mắt ngoan hiền
bao giờ cũng thấy mình là bé dại
thật đẹp giữa trời mưa gió triền miên

xin như nụ hồng tròn vẹn trên cao
áo vướng lá bay thương yêu dạt dào
mây bay trắng cả một đời hạnh phúc
mắt ngơ ngác nhìn hàng cây xôn xao

                                       THƯƠNG VŨ MINH

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 150, ra ngày 1-4-1971)

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

Người Nữ Kiệt

 

Ánh hoàng hôn dần tắt chỉ còn le lói một màu đỏ ửng sau rặng đồi. Cả thôn trang chìm trong yên lặng. Nhà nhà đóng cửa kín mít. Cảnh giã gạo vui chơi dưới trăng đã mất hẳn từ khi quân Minh dựa vào cớ "Phù Trần Diệt Hồ" để rồi nhân dịp đó đặt nền đô hộ trên giang sơn đất Việt. Chúng vung tiền ra mua chuộc bọn tham quan và bọn này dựa vào thế lực ngoại bang lại càng lộng quyền: Cướp phá giết oan người vô tội...

Không thể nhịn nhục được, từng đoàn người đã đứng lên khởi nghĩa. Họ hoạt động âm thầm và bí mật, ước mong có ngày diệt được bọn cướp nước tham tàn.

Sương chiều phủ lạnh. Từ cuối chân trời bỗng hiện ra hai bóng kỵ mã, một trẻ một già. Đôi tuấn mã song song cất bước. Người trẻ là một thanh niên nhỏ nhắn, tóc búi cao. Đôi mày vòng nguyệt hiện rõ ra trên đôi mắt đen huyền điểm hai làn mi cong vút, thêm vào đó, sống mũi dọc dừa, đôi môi đỏ tợ son đã làm cho thanh niên có vóc dáng một thiếu nữ. Tuy nhiên cặp mắt huyền của chàng sẽ quắc sáng lên đối với kẻ nào dám diễu cợt.

Đến bìa rừng, thanh niên khẽ hú lên vài tiếng. Người đi cạnh chàng khẽ hỏi:

- Chẳng hay công tử quyết định thế nào về câu chuyện hồi chiều trong quán dịch?

Thanh niên không đáp, chỉ bồn chồn cố giương mắt nhìn trong bóng đêm và chắc lưỡi:

- Ta nóng lòng quá. Nếu trễ ắt sẽ hiểm nguy.

Lời chàng vừa dứt thì một đốm sáng nhỏ đã di chuyển đến gần. Một tên quân cầm đèn khẽ cung kính thưa:

- Xin Công tử theo tôi.

Thanh niên và lão già xuống ngựa lặng lẽ theo sau tên quân. Qua lùm cây rậm rạp và u tối, họ đến trước một ngôi nhà nhỏ khuất trong rừng sâu.

Tên quân khẽ nói:

- Xin Công tử vào. Tướng công đang nóng lòng đợi.

Thanh niên xô cửa bước vào. Bên trong ngồi chính giữa là một vị võ quan râu tóc đã hai màu nhưng vẻ hào khí hiện rõ trên nét mặt. Hai bên là những vị tướng lãnh oai nghi và chăm chú nghe những lời bàn của lão quan.
 
Thanh niên cung kính thưa:
 
- Con là Trần Anh Thư xin phủ phục trước cha và kính chào liệt vị...
 
Vị lão quan cười khà:
 
- Giỏi lắm, ta có lời khen con gái cưng ta đó.
 
Chàng thanh niên đỏ mặt. Trần lão nói tiếp: 

- Kế hoạch của cha thế nào? Con hãy trình bày cho cha tỏ.

- Thưa cha thành công cả. Quân ta đã làm cho bọn phản quốc Phan Huy vỡ mật. Nhưng... thưa cha, hồi chiều nầy con có nghe trộm được của hai tên quân Tàu nơi quán dịch. Theo chúng thì quân Minh đã khám phá ra nơi ẩn náu bí mật của ta và sẽ đốt phá rừng nầy nội trong đêm nay. Con vội phi ngựa về đây và mong cha quyết định.

Vị lão quan có vẻ trầm ngâm. Lão đưa mắt quan sát thủ hạ của mình. Nét bối rối hiện rõ trên mặt Trần Như, một vị tướng hữu công, nhưng hắn đã vội đứng lên:

- Thưa chủ tướng, theo ngu ý thì ta hãy ở lại đây cho chúng một bài học cùng phát huy uy danh của đảng.

Lê Khang, có vẻ trầm tĩnh:

- Theo tôi thì ta nên tránh đi tìm cơ sở khác vì "tránh voi chẳng xấu mặt nào". Chẳng hay liệt vị có đồng ý không?

Trần Như tức giận:

- Là vị tướng tài như ông, tại sao lại phải sợ chúng, ta cứ ở lại thử sức với chúng xem sao.

- Nhưng bên ta lực lượng còn yếu. Vả lại...

Trần lão can ngăn:

- Ta đã quyết định, phải lập tức rời khỏi nơi đây. Ta sẽ gặp nhau tại đồi phía đông thành phố. Hãy lên đường, Anh Thư theo cha...

Trần Như tức tối đứng lên ném một cái nhìn thù hằn về phía Lê Khang.

Đoàn người vừa ra khỏi rừng ít lâu thì ngọn lửa đã bắt đầu bốc lên. Tiếng cây khô gẫy răng rắc. Thú rừng chạy tán loạn trước tiếng cười thỏa mãn của quân Minh.

Dân chúng quanh rừng ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra...

*

Người ta không hiểu hai cha con họ từ đâu đến nhưng chỉ biết rằng từ khi có chiếc quán này thì phong cảnh nơi đây đã khác hẳn. Khách tới lui tấp nập, phần đông là bọn lính Tàu.

Người chủ quán là một ông già quắc thước, điềm đạm và hiền hậu. Người con lão nghe đâu tên là Thị Tần, đảm nhận công việc thu tiền cho quán. Nàng đúng là một trang tuyệt sắc giai nhân. Chiếc khăn mỏ quạ làm tôn thêm nước da trắng mịn của nàng làm các anh lính Tàu mê mệt. Quán nàng đóng cửa rất sớm. Khi vầng dương đã khuất hẳn sau dãy núi xa thì cha con lão đã dọn dẹp xong xuôi. Rồi lão cùng người con gái ra đi. Người ta không biết họ đi đâu nhưng đoán rằng họ đi mua sắm gì đó. Vì mê sắc đẹp của Thị Tần và cũng muốn mua chuộc lòng lão chủ quán nên bọn quân Minh để yên cho họ ra đi mà không xét hỏi.

Hôm nay, như thường lệ, tửu quán vẫn đông nghẹt thực khách. Tiếng cười nói vang lên cùng tiếng khua của ly chén. Một người khách vừa xuất hiện nơi của. Đó là một tráng sĩ, lưng đeo trường kiếm, đôi mắt đảo quanh tìm chỗ ngồi. Chàng tiến đến chiếc bàn nơi góc quán. Sau khi gọi tửu bảo lấy rượu, chàng dúi một quan tiền vào tay hắn:

- Ta thưởng công ngươi.

Tên tửu bảo cười híp mắt rồi lụp xụp vào trong. Như hiểu ý, Thị Tần bỏ quầy hàng lui gót. Nàng hỏi tên tửu bảo:

- Có việc gì thế?

- Thưa tiểu thư, anh em Lê Phong, Phan Nhị bị bắt cả rồi, bọn quân Tàu sắp đến quán ta.

- Ta phải vào báo cho cha ta mới được.

- Còn con thì ra dọn cửa hàng phải không tiểu thư?

- Ừ, ngươi cứ ra đi.

Vừa đi, Anh Thư vừa lẩm bẩm:

- Có lẽ nào?

Không mấy chốc đã đến phòng Trần lão, vì chính ông chủ quán là Trần lão còn thiếu nữ chính là Anh Thư. Nghe Anh Thư thưa trình, Trần lão khẽ cau mày:

- Chắc hẳn trong hàng ngũ ta có kẻ bội phản.

- Thưa cha đúng như vậy, và con nghi là... Trần Như tướng quân.

- Có lẽ nào?

- Vừa rồi... con có để ý đến một gã lái buôn ngồi trong góc quán. Gã có gương mặt giống Trần Như và cứ nhìn con chầm chập.

Trần lão chưa kịp nói gì thì có tiếng gõ cửa.

- Ai đấy?

- Lê Khang!

- Cứ vào.

Nơi cửa hiện ra một thanh niên. Đó là người đã cho tên tửu bảo quan tiền và khôn khéo kẹp vào đấy lá thư. Trần lão lên tiếng:

- Việc ta giao cho tướng quân thế nào?

- Thưa chủ tướng thành công cả. Đức Bình Định Vương Lê Lợi tỏ vẻ sung sướng lắm. Ngài còn nói: nếu được chủ tướng về phục vụ dưới cờ, ắt là quân Minh sẽ đại bại.

Trần lão vuốt râu, cười khà:

- Thật là vinh hạnh cho ta. Ngài có dặn điều chi không?

- Thưa, ngài hứa sẽ cho sứ giả đến thăm chủ tướng cùng bàn về vấn đề ấy ngày mai.

- Được, tốt lắm.

Có tiếng gõ cửa gấp rút và tiếng tên tửu bảo:

- Thưa lão gia... nguy rồi! Quân Minh đang tiến đến đây. Chúng chỉ còn cách một dặm đường mà thôi.

Trần lão khẽ cau mày:

- Hừ, lại bọn giặc cỏ. Thôi tướng quân và con hãy tẩu thoát. Cha ở lại cản chúng rồi sẽ theo sau.

Anh Thư ngần ngừ:

- Nhưng...

- Con phải xem đó là thượng lệnh. Hãy đi ngay vì thì giờ cấp bách lắm rồi.

Đợi cho bóng hai người đã khuất dạng, Trần lão lẩm bẩm:

- Tội nghiệp con gái ta chưa được hưởng một phút vui sướng nào trong tuổi hoa niên. Nhưng quê hương đã gọi biết làm thế nào hơn.

Như sực tỉnh, Trần lão vội vã gom góp đồ đạc. Nhưng không còn kịp nữa vì có tiếng quân Tàu đập cửa.

- Chủ quán, mở cửa.

Biết đã muộn, Trần lão lui vào góc phòng tuốt gươm thủ thế.

Trông lão lúc ấy như một vị võ tướng sắp lâm trận.

- Mở cửa...

- Tên súc sanh và con tiện tỳ đã trốn thoát rồi. Hãy lục soát thật kỹ.

Trần lão bừng giận:

- Tên phản quốc. Thế mà từ lâu ta đã lầm mi ; ta đã nuôi ong tay áo.

Trần Như cười ha hả:

- Ha... ha... ha nhờ thế mà ta mới có cân đai, áo mão. Theo nhà ngươi để rồi chết trong rừng già ư? Ngươi nên biết rằng từ lâu ta đã thù hận ngươi, oán ghét ngươi nên mới bí mật đầu hàng Minh triều. Lần trước nhờ có Lê Khang mà ngươi thoát chết thì lần nầy nhờ ta ngươi cũng sẽ an toàn nếu ngươi thuận chỉ cho ta sào huyệt của ngươi...

- Quân vô loại. Hãy đỡ lưỡi kiếm của ta.

Trần lão hươi gươm. Trần Như khẽ phất tay. Bọn lính Tàu đã sẵn sàng. Nhưng thanh gươm của Trần lão tung hoành như chỗ không người khiến chúng núng thế. Hào khí bốc đầy lên mặt, lão hăng say giết từng tên giặc. Nhưng "mãnh hổ nan địch quần hồ"... Sau một hồi giao chiến vì sức già suy yếu, Trần lão ngã gục máu nhuộm đỏ cả người. Bọn lính Tàu ập vào đánh đập túi bụi trả thù cho các đồng đội. Trần Như mỉa mai:

- Lão già ngu xuẩn, hãy ở đó mà chờ tử thần đến rước. Ta đi đây.

Chiếc quán bị đốt cháy. Lửa đỏ bùng lên, ngập sáng một góc trời...

*

Đêm đã về khuya. Ánh trăng thượng tuần nhợt nhạt chiếu trên nền trời không sao. Hai bóng đen âm thầm tiến bước. Bóng thứ nhất khẽ cất tiếng:

- Không hiểu cha tôi ra sao, tôi lo quá tướng quân ạ.

Bóng thứ hai không đáp. Họ đã đến quán dịch. Quang cảnh điêu tàn hiện ra.

- Trời ơi! Chúng đã đốt quán.

Hai bóng đen sờ soạng trong đêm. Nhờ ánh trăng nhợt nhạt, họ đã tìm ra xác của Trần lão, toàn thân bị cháy nám. Anh Thư khóc òa:

- Cha ơi!

Lặng người đi trong niềm xúc động, Anh Thư chỉ kêu lên được hai tiếng "Cha ơi". Lê Khang để yên cho nàng khóc. Chàng đang suy nghĩ miên man về những ngày sắp tới. Có tiếng Anh Thư:

- Tướng quân hãy phụ với tôi một tay. Tôi sẽ để cha tôi nằm yên trong lòng đất mẹ. Xin Tổ quốc hãy minh chứng cho lòng của Anh Thư. Tôi sẽ trả thù cho cha tôi. Tôi sẽ phanh thây thằng Trần Như phản bội.

Đôi mắt nàng long lên sáng quắc. Lê Khang khẽ nói:

- Nếu hồn lão tướng có linh thiêng xin phù hộ cho non sông mau được thái bình. Ta đi thôi, tiểu thư...

*

Nhìn những thoi vàng đỏ chói, Trần Như sung sướng cười vang. Hắn vừa được Minh triều thưởng một xe vàng bạc vì đã có công giết Trần lão, tức là nhổ một cái đinh trước mắt cho nhà Minh.

Bỗng... một tên quân bước vào:

- Thưa ngài, có một thường dân đòi vào diện kiến, hắn nói có việc cần kíp lắm.

- Dẫn hắn vào cho ta.

Trần Như dịu giọng:

- Có việc gì mà ngươi tìm ta?

Người dân quê vừa vào lập bập, run rẩy:

- Thưa... ngài... Con có... thấy Trần... Anh Thư và Lê... Khang.

Đôi mắt Trần Như sáng lên:

- Ngươi nói thiệt chớ?

- Dạ... con đâu dám... dối... ngài làm chi... Hiện giờ họ đang đi về phía rừng tây. Người con gái có... đôi mắt đẹp và người con trai... dáng điệu uy nghi.

Trần Như đứng lên:

- Được, ta tạm tin lời ngươi. Nhưng, muốn được dễ dàng, ngươi phải dẫn đường cho ta. Nếu quả lời ngươi nói đúng ngươi sẽ được thưởng.

- Dạ, con xin hết lòng với ngài.

Lát sau, Trần Như cùng 20 tên quân lên đường. Theo sau tên hướng dẫn, họ tiến vào rừng. Trần Như có vẻ sốt ruột:

- Đã đến chưa, sao lâu thế?

- Dạ... chỉ một đoạn đường nữa thôi... Đại quan đừng nóng giận...

Đến một khúc quanh um tùm, người nọ thúc ngựa chạy nhanh rồi mất dạng. Biết là có biến, Trần Như hô to:

- Hãy giữ vững hàng ngũ.

Nhưng không kịp nữa, từng loạt mưa đá, mưa tên bắn xuống. Tiếp theo là lệnh truyền trong trẻo của một thiếu nữ vang lên:

- Anh em ráng bắt cho được tên Trần Như phản quốc.

Anh Thư xuất hiện, gọn gàng trong bộ võ phục. Hai mươi tên giặc đã nằm sóng sượt trên đất, rên siết, quằn quại.

Trần Như trúng tên nơi tay, hắn còn đang loay hoay thì đã bị nghĩa quân trói gô lại. Người dân quê lúc nãy xuất hiện, cười khà:

- Kính chào Trần Như tướng quân.

Anh Thư cười mãn nguyện:

- Xin khen tài khôn khéo của tướng quân. Thôi ta về sơn trại kẻo muộn.

Một vài tên quân thừa lúc hỗn loạn trở về báo tin. Bọn lính Tàu đến nơi. Chúng chỉ thấy rừng cây um tùm và số người đang nằm rên siết giữa rừng già im lặng.

*

Đợi cho các tướng hiện diện đông đủ, Anh Thư lên tiếng:

- Dẫn tên Trần Như vào.

Một lát sau, 2 tên quân đã điệu tội nhân đến: Gương mặt Trần Như có vẻ xanh xao sau một đêm mất ngủ. Hắn cúi đầu. Anh Thư gằn giọng:

- Tên phản bội đê hèn!... Mi có điều gì muốn nói nữa chăng?

Trần Như ngước đầu, cố làm ra vẻ hào hùng:

- Đừng nói nhiều lời, giết ta đi!

Mắt Anh Thư long lên. Nàng quăng cho hắn thanh gươm:

- Hãy giữ lấy để so kiếm cùng ta.

Các lão tướng lo ngại. Một vị đứng lên:

- Giết một tên phản quốc cần gì phải nhọc sức tiểu thư. Tôi xin thay thế tiểu thư làm việc ấy.

Anh Thư mỉm cười:

- Xin cảm tạ tướng quân. Nhưng tôi muốn chính tay tôi thanh toán hắn để trả thù cha. Tướng quân đừng lo ngại.

Nàng hất mặt về phía Trần Như:

- Nào sẵn sàng đi, ta nhường mi một đường gươm đấy.

Chẳng nói chẳng rằng, Trần Như chém nhầu. Anh Thư hươi mạnh lưỡi gươm. Lòng thù hận, ý trả thù đã khiến đường gươm của nàng biến ảo khôn lường. Trần Như cũng không kém. Hai kỳ phùng địch thủ gặp nhau bên tám lạng bên nửa cân khiến cuộc so kiếm ngoạn mục vô cùng. Bên ngoài các tướng lãnh cùng quân sĩ đều hồi hộp theo dõi. Tay họ để nơi chuôi gươm. Họ sẽ sẵn sáng tiếp cứu nếu Anh Thư bị hạ. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Ai cũng muốn giành phần thắng về mình. Đường kiếm của Anh Thư bỗng nhiên biến đổi. Ánh thép sáng ngời tỏa rộng như ánh bạc. Mắt Trần Như hoa lên. Hắn không còn thấy gì nữa:

- ... Á...

Tiếng kêu thê thảm vang lên. Đầu Trần Như lăn lông lốc trên cỏ. Quân sĩ reo hò vang dội. Anh Thư thản nhiên tra kiếm vào vỏ.

Sáng hôm sau, đầu Trần Như được treo giữa chợ. Bọn quân Minh thêm một lần táng đởm kinh hồn trước tinh thần bất khuất của các chiến sĩ giòng Lạc Việt.

*

Đêm đã khuya lắm rồi. Con trăng 16 giãi ánh vàng xuống khắp vùng đồi núi. Một đoàn người ngựa âm thầm đi trong bóng đêm. Tất cả đều im lặng. Chỉ có tiếng vó câu gõ đều trên mặt đất tạo thành một âm thanh buồn bã trong đêm khuya. Họ băng rừng, vượt suối lặng lẽ tiến bước.

Họ đã đến nơi dự định. Lúc đó trời đã gần sáng. Đi đầu đoàn người là hai thanh niên trẻ. Họ dừng lại nghe ngóng. Trước mặt họ là một thành trì kiên cố. Họ còn đang ngờ vực thì cánh cửa đã bật mở. Đoàn người tiến vào.

Giữa sân Bình định vương đứng trên một bục cao. Ngài mặc nhung bào, lưng đeo trường kiếm, nét mặt nghiêm nghị hơi cau lại khi nhìn thấy 2 thanh niên đi đầu. Ngài đang mong đợi một người...

Hai chàng thanh niên đã qua mặt đoàn quân thiện chiến của Bình định vương. Họ đã xuống ngựa. Tuy còn lo nghĩ nhưng Đức Bình định vương vẫn vui vẻ tiếp đón. Một trong hai chàng giới thiệu:

- Tiện nữ hân hạnh được gặp ngài. Và đây là Lê Khang...

Bình định vương sửng sốt. Ngài không ngờ Anh Thư cải trang khéo đến thế. Thế mà ngài cứ ngỡ... Như đoán trước ý nghĩ của ngài, Anh Thư khẽ đáp:

- Xin ngài tha lỗi, tiện nữ phải cải nam trang để tiện đi đường.

Bình định vương vui vẻ:

- Ồ, không có gì, ta thành thật khen ngợi tài cải dạng của cô nương.

Đợi cho mọi người đều an tọa ngài tiếp:

- Ta rất đau buồn khi hay tin Trần lão đã đền nợ nước. Từ lâu ta vẫn ái mộ ngài và mong có ngày tương ngộ. Ta căm giận quân Minh đã nhẫn tâm cướp mất của ta người bạn quí...

Anh Thư cúi đầu. Nàng có vẻ cảm xúc lắm. Bình định vương tiếp:

- Nay, ta đã được cô nương về trợ lực, chắc chắn có ngày bọn chúng sẽ đền tội. Tình đoàn kết của quân dân ta sẽ chiến thắng tất cả. Từ lâu ta đã nghe tiếng cô nương nay mới hân hạnh được gặp mặt.

Anh Thư khiêm tốn thưa:

- Tiện nữ chỉ mong đem chút sức mọn để cứu nước. Xin ngài đừng quá trang trọng khiến tiện nữ ái ngại.

Sau hôm ấy, Anh Thư và các bạn của nàng đã chính thức chiến đấu dưới cờ Bình Định Vương.

10 năm trôi qua... 10 năm gian khổ. Đức Bình Định Vương đã chiến thắng quân Minh. Ngài lên ngôi và phong thưởng cho công thần. Những người mà ngài định phong chức đầu tiên là Nguyễn Trãi, Anh Thư và Lê Khang.

Nhưng... nếu Nguyễn Trãi và Anh Thư chiến đấu dưới cờ Ngài với cùng một mục đích là trả thù cha, đền nợ nước... thì khi vinh hiển, hoàn cảnh 2 người khác biệt nhau. Nguyễn Trãi được phong nhất phẩm công thần còn Anh Thư... đã lặng lẽ ra đi.

Số là trong buổi lễ phong chức công thần, Bình định vương thấy thiếu mặt nàng. Ngài còn đang phân vân thì một tên quân đã vào đệ một bức thư... Không biết trong thư nói gì nhưng khi đọc xong, nét mặt Vương trầm lặng. Thì ra, đó là bức thư từ biệt của Anh Thư. Trong thư nàng viết:

"Đất nước đã được độc lập. Tiện nữ rất lấy làm sung sướng. Sung sướng vì trời không phụ dân tộc ta. Sung sướng vì tiện nữ đã làm tròn lời trăn trối của cha già và đã trả xong nợ nước. Nhưng còn chữ hiếu chưa tròn, tiện nữ đã bỏ mồ cha hoang lạnh, không hương khói. Giờ đây tiện nữ phải ra đi. Đi để làm tròn hiếu đạo. Tấm thân côi cút nầy không biết sẽ ra sao. Ngài đừng tìm kiếm làm chi. Tiện nữ là cánh chim trời bay mãi..."

Tuy vậy, Đức Bình định vương vẫn cho người tìm kiếm. Nhưng vô ích, bóng nàng vẫn bặt tăm. Nàng đã ra đi, đi mãi để lại mối thương tiếc trong lòng Vương đối với người con gái khả ái mà kiêu hùng ấy...


LỆ KIỀU TRANG     

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 64, ra ngày 1-3-1967)

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Gà Mái Với Diều Hâu

 

Ngày xưa vì đông con và quá nghèo nàn, mà trời lại rét quá, nên gà mẹ mới điều đình mượn của Diều hâu Papangô chiếc kim để vá víu lại áo quần cho đàn con.

- Chị đông con quá mà con chị lại nghịch ngợm, tôi e chị đánh mất chiếc kim duy nhất của tôi mất - Papangô nói.

- Bà chị dạy quá lời, em đâu quá ngu ngốc mà đưa chiếc kim quý giá cho lũ trẻ chơi. Nếu em đánh mất chiếc kim của chị em xin thường 400 đ cho chị chứ gì. Vả chẳng may có rơi rớt thì dễ thường đôi mắt gà mái em lại không thể tìm được cây kim này sao?

Dù yên trí về những lời biện bạch, Papangô cũng cố nói thêm:

- Tôi nói trước là sẽ không để chị và lũ con chị yên thân, nếu chị để mất cây kim duy nhất của tôi nghe.

- Vâng chị cứ yên trí đừng e ngại, em sẽ xin thận trọng.

Nhận được kim, gà mái vui vẻ lắm, vội đến cạnh cối xay may áo quần.

Vừa khâu được xong một đường thì hết chỉ, nó lật đật lấy kim ra xỏ chỉ mới thì, vì vụng về, đánh rơi vây kim văng đâu mất, nó hốt hoảng kêu lũ con rối rít, bắt lũ con đi tìm và mẹ con bới cùng khắp sân cũng vô ích.

Chị gà tây đủng đỉnh quanh đó lấy làm khoái trá cười nói bô bô, vì xưa nay vẫn ghét gia đình gà mái, nó vội vã đến nhà Diều hâu ton hót:

- Bà chị Papangô ơi, khổ to rồi, chị có biết là gà mái đã để cho con nó nuốt mất kim báu của chị rồi không? (nó thêu dệt và nói dối quá mức) Em đã biết ngay mà, thương người thì khổ đến thân, em chả thèm thêm bớt lời với hạng đó bao giờ. Sao mà bà chị lại nhân đức quá lố với bọn hạ lưu đó?

Gà tây có ác cảm vì thịt nó không được ưa chuộng bằng thịt gà mái.

Được tin tai hại đó, Papangô lồng lộn rít lên, vội vã chạy tìm gà mái và từ xa, nó đã nghiến răng thét:


- Pi i i Lokohoko (nghĩa là kim đâu?)

Gà tây chạy theo cong cớn nói thêm:

- An Takoro Bobony! (nghĩa là trong bao tử).

Thấy sự thể không hay, gà mẹ vội dẫn đàn con chạy mất, tránh khỏi bị Diều hâu đánh xé. Và từ đấy Diều hâu chỉ rình bắt gà con xé xác để tìm kim và lúc nào gà cũng cùng cục bới đất tìm kim trả cho Diều hâu.

Tai họa liên miên đó sinh ra và tiếp diễn đời nọ đến đời kia chỉ vì lời nói độc ác của con gà tây.


Nguyễn-Tất-Thắng     
(Công thành)          

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 26, ra ngày 25-3-1965)



Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2024

Bài Tâm Ca Thứ Nhất

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngày hai buổi đạp xe về cư xá
Bánh lăn hoài trên đường đá nhấp nhô
Giọt mồ hôi bắt đầu loang lưng áo
Lòng vui, ba cũng muốn hát ngu ngơ

Buổi tối ba ngồi trước chồng giấy má
Đôi vai guộc gầy, hao mòn mùa xuân
Ly trà đắng đã vơi gần một nửa
Ba làm hoài những bài toán trừ, nhân

Khi buông bút đã về khuya gió lạnh
Nhìn bé thơ lòng ba thấy nao nao
Môi mơ ước cũng nhiều như sóng trắng
(Sóng mong manh và vỡ vụn quá mau)

Buổi sáng bé ngồi sau xe đến lớp
Sân trường bạn bè cười nói vui ghê
Khúc bánh mì vẫn còn nguyên trong cặp
Ba đi rồi còn đôi mắt trông theo

Bài hát mới cô giáo nêu ý nghĩa
Thương má ba là phải học cho chăm
Những ca khúc bé sau nầy vẫn nhớ
Bài tâm ca thứ nhất giữ trong tim
 
                                             Thông Xanh
                                             cỏ xót xa đưa
                                              gửi Ba - pt3, 1426
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 136, ra ngày 15-3-1975)
 

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2024

Cuộc Diễn Binh Âm Thầm

Đấy là một đoàn quân áo đen. Họ đen không chỉ ở bộ áo quần mà cả ở mặt mũi tay chân nữa. Nghĩa là họ đen từ đầu cho tới cuối, từ đôi mắt đen long lanh cho tới đôi giày xi đen bóng. Đôi cánh tay - ồ, mà nếu được gọi nó là đôi cánh tay nhỉ? Thôi... thì ta cứ tạm cho là vậy đi - rắn chắc mang một đôi găng cũng màu đen nốt. Ở người họ rặt một mầu đen, đen tuyền. Họ đi âm thầm nối đuôi nhau cả hàng hàng lớp lớp người không sao đếm xuể. Chao ôi, họ không đi về cùng một phía mà họ còn xuôi ngược nữa. Này nhé, yên nghe em kể: em vừa trông thấy hai người trong bọn họ dừng lại chuyện trò với nhau vui vẻ lắm. Tiếc có mỗi một điều là em không nghe được họ nói với nhau những gì để kể lại cho bạn bè trong cánh đồng cỏ non đang chăm chú nghe! Mà thôi... mình cũng không nên nghe chuyện của người khác làm gì nhỉ, bạn nhỉ? Tò mò là thói xấu mà. Bạn có đồng ý với em không nào?

Thế nào? Bây giờ các bạn có vui lòng xích lại gần nhau, nhường cho em một chỗ ngồi be bé, được không hở bạn bè em trong gia đình Tuổi Hoa trên quê hương yêu dấu của chúng ta? Nhường cho em một chỗ ngồi, cho em nhập bọn với!

Em từ xa mới đến đây. Để rồi em kể bạn nghe cuộc hành trình của em từ miền Trung nghèo khó đất cày lên sỏi đá. Nhưng đấy là chuyện để... hạ hồi phân giải, bây giờ thì em tiếp tục câu chuyện "Cuộc diễn binh âm thầm" đã nhé! Ấy, gọi thế cho có vẻ to tát chứ thực sự thì những người này họ làm việc âm thầm lắm! Mà họ cũng nhỏ bé như tiếng nói nhỏ bé của họ vậy đó! Thì em đã chẳng kể với các bạn là em không thể nào nghe thấy tiếng nói của họ mà.

Đoàn quân chuyển mình dưới ánh nắng vàng nhạt, họ đi trên một bức tường cũng mầu vàng nhạt nốt, ấy! Đố các bạn đoán coi họ là ai mà "thiện nghệ" đến mức đó vậy? Những thân hình nhỏ bé vội vã băng trên bức tường thành thẳng đứng. Chắc là đôi chân của họ có "hấp khẩu" (nghe có lạ không nhỉ? Em nghe các anh lớn của em học bài vạn vật, hay ê a những đoạn như vầy: "Chân và bụng thằn lằn có hấp khẩu nên thằn lằn bò trên tường được". Vậy thì... trí tưởng tượng của em nó nghĩ ra những điều em đã viết trên kia đấy). Em tò mò nhìn ngắm, quan sát từng bước chân của họ. Gớm khiếp, làm cái gì mà ùn ùn kéo nhau đi đâu đông dữ vậy? Chắc... các người đi di cư há? Ừ mà có lẽ đúng đấy, mỗi lần họ kéo nhau làm một cuộc "diễn binh âm thầm" là bà nội em chép miệng thở than: "Ấy, sắp có mưa lớn rồi đó! Cái giống ấy mà bồng bế nhau lên cao thì thế nào cũng có lụt lội". Ấy... bây giờ thì đến rặt một bọn người khuân vác". Em gọi thế là vì em thấy họ ôm một gói gì trăng trắng, chắc lại là những bao gạo, những bao bột mì, lạ một điều là khiêng đồ vật cồng kềnh thế kia mà những bước chân của họ vẫn thoăn thoắt. Thỉnh thoảng lại... "cốp", ấy, lại đụng nhau rồi, họ phân trần với nhau - có lẽ thế - tí xíu rồi vui vẻ tiếp tục công việc của riêng mình. Họ từ đâu tới, và họ đi về đâu, ôi chao làm sao em biết được. Có điều là em biết họ ở rất gần em và đến một nơi cũng chẳng thể gọi là xa nơi em cư ngụ được.
 
 
Trong một loáng, chừng mươi phút, em lơ đãng nhìn con mèo Mi-nu vờn quả bóng mầu sặc sỡ thì em nghe bé Thúy, em gái út của em, kêu lên: "Ủa, mấy con "kín" đen của em nó bỏ đi đâu hết rồi hả anh Phúc?" Rồi con nhỏ làm lộ hết "bí mật quân sự" của em rồi, định giấu các bạn đến phút cuối mà nhỏ Thúy phá hỏng "kế hoạch" của người ta mất (?). Em giận quá, nhíu mày lại gặng hỏi bé Thúy: "Sao bé dám gọi "đoàn quân áo đen" của anh là "mấy con kín" hở? Xời ơi, nhớn thế rồi mà còn nói ngọng kìa! Quê thấy mồ! Còn "đoàn quân áo đen" hở? Nó diễn binh xong thì nó đi về nhà nó chứ đi đâu mà cũng hỏi".

Nhỏ Thúy ngơ ngác, đôi mắt to đen của nó tròn xoe lên, con bé giật giật lấy tay em: "Hở  anh? Mấy con "kín" của em đâu rồi? "Nó" nào đi về nhà hở anh? Nói em nghe mấy!"

Ấy, lại cũng là con "kín". Người ta là "kiến" hẳn hoi cơ mà? Phải chi em là thầy giáo của bé Thúy, mà bây giờ là giờ tập đọc thì em sẽ cho nó hai cái hột gà về tội sửa tên người khác, dù "người" đó là những... con kiến đen hiền lành thường hay âm thầm diễn binh qua những bức tường vôi vàng nhạt của nhà em.


PHÚC BỬU      

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 125, ra ngày 15-3-1970)


Thứ Năm, 7 tháng 3, 2024

Danh Ngôn 204



Một cô gái không biết e thẹn cũng giống như một món ăn thiếu muối.
Tục ngữ Ả RẬP

Người thiếu nữ hay cau có gắt gỏng thì không còn là người thiếu nữ nữa.
De SCUDÉRY.

Thật đáng thương cho những thiếu nữ chỉ biết đua đòi xa phí mà quên trau dồi đức hạnh.
Bà NECKER

Sự đỏ mặt là màu sắc của đức hạnh.
D. Le CYNIQUE.

Loài người là lỗi lầm duy nhất của tạo hóa (Alexander POPE). Con gái là sự lầm lỡ thứ hai của thượng đế.
NIETZSCHE.

Các cô sẵn sàng tự nhận mình nói quấy, khi họ nói phải hơn là khi họ nói quấy.
J. CHARLES.

Xưa các thiếu nữ đỏ mặt mỗi khi mắc cỡ ; Nhiều cô gái ngày nay lại mắc cỡ mỗi khi đỏ mặt.
X.

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 204, ra ngày 1-7-1973)

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2024

Giã Từ Tháng Hai




 
 
 
 
 
 
 
Hoa lá đâm chồi cuối tháng hai

Hững hờ buông thả những ngày dài

Năm nay thêm được ngày hăm chín 

Thêm một ngày xuân thả gió bay


Đất khách quê người mãi ngóng trông

Thấp thoáng chân mây chút nắng hồng
 
̣Đêm qua thao thức  vầng trăng cũ

Tan loãng đi dần trong gió đông


Ở một phương trời xa người thân

Mùa xuân đến muộn đã bao lần

Hoa dù nở chậm niềm vui nhỏ

Cánh én cũng làm nên mùa xuân


Láng giềng có cá lội trong ao

Một hòn non bộ, một chiếc cầu

Treo những lồng đèn trên hiên trước

Hoa vàng trong gió cũng lao xao


Rộn rã đâu đây tiếng ai cười

Của cô gái nhỏ mắt rạng ngời

Bên khe nước chảy không ngừng nghỉ

Một cảnh xuân tình cạnh gió lơi


                                 Nhã Uyên
 

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024

Cái Hộp Của Chị Loan

 - Ngà ơi! Chị Loan gửi tặng con hộp gì đẹp quá đây.

Nghe me gọi Ngà vội chạy lên ngay nhất là nghe me bảo có cái "hộp gì".

- Ái chà! Cái hộp trông xinh và dễ thương quá me nhỉ? Con phải cảm ơn chị Loan nhiều mới được.

Vừa nói Ngà vừa cuống quít lấy vội cái hộp quà do mẹ trao lại. Ừ! Ngà đã nhớ lại rồi, hôm qua, ngày đầu tháng me cho Ngà những 20 đ, vì Ngà đứng hạng nhì trong lớp. Cầm tiền ra chợ, Ngà cứ nghĩ đến mấy cái kẹo, cái bánh hay tờ báo Tuổi Hoa mà một chút nữa Ngà sẽ mua, nhưng...

Trước mắt Ngà một ông lão an mày mới đáng thương làm sao. Ông ngồi phệt xuống đất vì chân ông đã cụt mất. Người ông gầy còm và xanh mét, chìa cái nón rách ra, ông mấp máy van xin người qua đường bố thí. Trời ơi! Ngà thương ông quá đi thôi, rồi không cần suy nghĩ, Ngà cầm cả 20 đ, bỏ ngay vào nón của ông.

- "Cháu tặng ông cả đấy".

Rồi Ngà đi nhanh về nhà hổng thèm mua kẹo, mua bánh, mua tờ báo Tuổi Hoa xinh xắn dễ thương nữa, nhưng Ngà lại cảm thấy sung sướng còn hơn được ăn xong một cái kẹo ngon lành nữa ấy... Chợt.

- "Ngọc Ngà chờ chị đi với cưng".

Nghe gọi, Ngà vội quay lại, thì ra là chị Loan. Chị Loan đã đến bên Ngà, chị xoa đầu Ngà rồi âu yếm nói:

- Cưng của chị ngoan ghê, đáng được thưởng lắm đấy.

Ngà ngạc nhiên hỏi chị:

- Chị bảo Ngà ngoan gì cơ?

- Thôi mà, hồi nãy chị thấy Ngà đi chợ, rồi gặp ông lão ăn mày Ngà cho tiền hết cả chắc có lẽ bi giờ cô bé hổng còn tiền nên mới trở về phải không nhỉ, đây chị cho Ngà lại đây... 

Ngà vội ngắt lời:

- Thôi Ngà hổng dám đâu chị ạ, me đánh chết.

- Ừ, ngày mai chị tặng Ngà một món quà nhé, ừ đi cô bé ngoan của chị.

*

Thế là hôm nay Ngà đã nhận được quà của chị Loan, Ngà vui ghê ấy. Mở vội cái nắp hộp ra, Ngà chợt kêu lên:

- Me ơi! Chị Loan tặng con con dế me ạ.

Me đang khâu, buông kim nói:

- Ờ càng thích chứ sao con, chà con dế trông xinh tuyệt.

Ngà chưa hết ngạc nhiên thì trong hộp hiện ra một tờ giấy nhỏ. Ô! Thì ra là lá thư của chị Loan.

Chiều qua, chị nghĩ mãi nhưng chẳng biết tặng gì cho cưng cả. Mãi cho đến tối, chị đang ngồi dán và làm một cái hộp nhỏ sao cho thật xinh để tặng cho cưng thì một chú dế đẹp bay ngang và đáp xuống đậu cạnh đèn, chị vội bắt lấy dế, cho ngay vào hộp để tặng Ngà, đừng chê nhé cưng.

Thương cưng nhiều     
Chị Loan.           

Ngà chớp nhanh mắt vì quá cảm động, Ngà thương chị Loan ghê cơ.

Đặt dế lên lòng bàn tay, Ngà ngắm đôi râu bé tẹo đang khẽ que quẩy bất giác Ngà cảm thấy thương chú dế làm sao ấy.

Tôi nay Ngà để dế lên đầu giường ngủ của Ngà chợt...

Re... Re... Re.

Tiếng dế gáy vang lên mới êm ái làm sao, êm như tiếng của me ru em bé vậy. Ngà lim dim ngủ nhưng một tiếng nói dìu dịu vang lên, vang tận ở hộp dế đặt ở đầu giường. Thôi đúng là tiếng của dế thương của Ngà, lạ nhỉ sao dế lại biết nói... Ngà vội lắng tai nghe:

"Thế là hôm nay dế bị nhốt trong cái ngục quá kiên cố nầy rồi, dế khóc, phải dế đã khóc thật nhiều, nhưng có ai nghe cho dế đâu. Dế còn nhớ, hôm qua sau khi rời cái hang ấm cúng, nơi đây dế sống với mẹ và người em nhỏ dại, còn cha của dế, trời ơi! đã bị mấy cậu nhỏ bắt mất rồi còn đâu. Dế phải đi tìm cỏ non để về dâng cho mẹ vì mẹ dế bị bệnh và cho em dế, tội nghiệp khi vừa lọt lòng mẹ em dế bị tàn tật cả hai chân. Nhưng kìa! Trước mắt dế, xa xa có một ánh sáng chói chang, dế vội đến đó xem cho biết, định xem xong sẽ về hái cỏ nhưng trời ơi! Khi vừa đến nơi thì dế đã bị người ta bắt và giam, sau lại tặng cho một người khác nữa. Trời ơi! Suốt đêm qua mẹ dế, em dế sống ra sao..."

Kế đó những tiếng nấc nghẹn ngào vang lên tức tưởi...

- Ngọc Ngà! Dậy đi con, sáng rồi.

Nghe mẹ gọi, Ngà giật mình thức giấc. Đầu giường tiếng dế vẫn gáy đều đều. Ngà phân vân nghĩ:

"Quái, sao mình lại nằm mơ lạ nhỉ... Ừ, mà nên thả nó đi để cho nó nuôi mẹ và em của nó, nó có hiếu quá mà."

Cầm lấy hộp dế Ngà mở tung cửa ra, mở vội cái nắp. Vụt một cái, dế đã nhẩy khỏi cái hộp ra ngoài cửa sổ đang tràn ngập ánh nắng đào tươi... Ngà cảm thấy sung sướng ghê đi... nhưng...
 
- Ngà ơi! Tại sao làm thế hở Ngà?

Ngà giật mình quay lại thì là chị Loan. Nét mặt chị đang buồn bã nhìn Ngà tiếp:

- Ngà đã chê quà tặng của chị...

- Không chị ơi! Không phải như thế đâu.

Rồi Ngà kể lại giấc mơ cho chị nghe, xong, Ngà nói tiếp:

- Ngà hổng biết chị có tin không chứ Ngà thì tin lắm chị ạ, với lại Ngà thương dế lắm, chị ơi! Đừng buồn Ngà chị nhé!

Chị Loan nhẹ đến bên Ngà dịu dàng nói:

- Chị tin lắm chứ sao lại không, em của chị có tính thương người, thương loài vật quá mà. Ngà ngoan lắm, thôi đi chơi với chị cưng, hôm nay ngày Chúa nhật cơ mà.

Chị Loan dẫn Ngà đi nhưng mắt Ngà vẫn thoáng nhìn qua cửa sổ. Chú dế đang nhẩy vào đám cỏ non mà râu còn cứ que quẩy mãi, chắc chú mừng lắm nhỉ! Ngà nghĩ thế và có lẽ chú đang lấy cỏ non mang về cho mẹ và em thì phải.


Bé NGỌC NGÀ      

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 40, ra ngày 1-3-1966)
 


oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>