VIII
CUỘC
ĐỐI THOẠI VỚI NHÀ THÁM TỬ
Hôm
sau, khi đồng hồ sắp điểm 5 giờ, Thu Cúc và Đức đã tới gõ cửa nhà cô Như Mai.
Con
bé vẫn mặc chiếc áo vải mầu xanh dương mọi khi. Vì dãi dầu mưa nắng, chiếc áo
đã ngả sang mầu xanh nhợt nhạt. Đáng lẽ khi tới gặp ông Hùng lần đầu tiên nó
phải ăn mặc chỉnh tề hơn một chút, nhưng nó sợ bà Tảo nghi ngờ nên nó đành phải
mặc cái áo cũ.
Còn
thằng Đức thì đầu chải bóng và mang một chiếc sơ mi trắng tươm tất vẫn dành cho
ngày chúa nhật. Nó cũng không quên rửa sạch sẽ hai bàn tay thường ngày vẫn bị
đen vì mực báo. Hôm nay trông nó rõ ra một cậu bé khôi ngô, vẻ mặt chân thật và
sự thông minh lộ rõ trong cặp mắt sáng của nó.
-
Em là Đức phải không? – cô Mai hỏi nó với một giọng thật dịu dàng – Thu Cúc có
nói chuyện nhiều về em! Chị rất vui được quen em hôm nay.
-
Em xin cám ơn cô đã cho phép em tới đây – Đức đáp một cách rất lễ phép.
-
Nhưng chị biết vụ này đã làm em rất bận tâm, cũng như chị vậy. Chị biết em đã
hoạt động ráo riết để tìm cách khám phá ra điều bí mật bao trùm con búp bê!
-
Vâng, thưa cô đúng thế, em đã làm tất cả những gì em có thể làm được… nhưng cho
đến bây giờ, em thấy vẫn chưa nên cơm cháo gì cả.
Cô
Mai đảo mắt nhìn quanh với vẻ thắc mắc rồi hỏi:
-
Nhưng con Lu đâu? Sao em không cho nó lại đây? Cúc đã kể rằng nó theo em đi
khắp mọi nơi kia mà?
-
Vâng, thưa cô đúng vậy, nhưng nó không thể vào một biệt thự đẹp đẽ như thế này.
-
Không sao đâu, chị rất yêu chó. Lần sau em cứ cho nó lại nhé.
Lúc
đó ông Hùng vừa tới, làm ngưng câu chuyện đang có đà giữa ba người. Ông có một
thân hình cường tráng, dong dỏng cao, trán rộng và đôi mắt thật sắc. Đức nhận
thấy ngay ông là người mà chẳng dễ gì ai qua mặt nổi. Nhà phóng viên trao đổi
vài câu chuyện với cô Mai rồi quay nhìn hai đứa nhỏ.
Cô
Mai vội nói:
-
Mai xin giới thiệu : đây là Thu Cúc và Đức, hai người bạn nhỏ của Mai. Cúc đang
bị liên hệ vào một câu chuyện bí mật mà chính Mai cũng gián tiếp bị dính líu.
Vì vậy, tụi này muốn nhờ anh giúp một tay. Bây giờ, xin mời anh ngồi xuống ghế,
châm một điếu thuốc rồi nghe tụi này trình bày tự sự.
Hùng
ngồi xuống, rút một điếu thuốc châm hút, vì ông thường nói nếu không có thuốc
lá thì ông không thể chuyên chú vào câu chuyện được. Đáng lẽ Cúc phải vào đề
trước, nhưng vì có ông khách lạ, nó thấy sợ sệt nên nó nhờ thằng Đức kể giùm.
Thằng nhỏ bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện con búp bê không thiếu một chi tiết
nào. Nó mô tả rất đúng những nhân vật trong câu chuyện kỳ dị này : bà lão bán
hàng với chiếc khăn vuông đen, hai người bí mật đã đánh cướp Thu Cúc, thằng
Oánh cà nhắc, người đàn ông có sẹo bên má phải và con búp bê, vai chánh của câu
chuyện này với lá thư bí mật giấu dưới tóc có mang địa chỉ của cô Mai.
Khi
Đức kể xong, ông Hùng chau mày và trầm ngâm kéo vài hơi thuốc. Rồi ông vẫy Cúc
lại gần nói với một giọng rất ôn tồn:
-
Bạn em đã kể lại câu chuyện rất rõ ràng khúc chiết, ta rất khen ngợi. Nhưng ta
cần biết thêm một vài chi tiết mà chỉ có em mới có thể nói rõ được. Vậy em có
thể nhắc lại từng câu từng chữ những lời bà lão đã nói với em chăng?
-
Thưa ông có ạ. – Cúc đáp nhỏ nhẹ.
-
Thế bà ấy nói thế nào lúc tới gần bên em? – nhà phóng viên vừa hỏi vừa sửa soạn
để ghi trên sổ tay những câu trả lời của con nhỏ. Đó là một thói quen cũ của
Hùng khi còn làm thám tử, ông vẫn thường nói rằng không có gì dễ làm sáng tỏ
một bí mật hơn là đọc lại những trang khẩu cung sau mấy giờ suy xét.
Thu
Cúc ngẫm nghĩ một lát để nhớ lại đúng các lời nói của bà lão trong cuộc đối
thoại ngắn ngủi với nó rồi đáp:
-
Thưa ông, bà ấy hỏi em : “Cháu có muốn mua một con búp bê không?”
-
Thế em trả lời ra sao?
-
Thưa ông, em không trả lời gì cả vì lúc đó em rất ngạc nhiên. Rồi bà ta cúi
xuống cái giỏ để lục lọi và bảo em rất nhanh : “Cháu vờ chọn một con búp bê đi.
Cháu lấy con mặc áo đỏ ấy”. Em ngạc nhiên hỏi : “Sao vậy hả bà?” Bà ta bèn trả
lời : “Im đi cháu, đừng hỏi nữa. Bà bị người ta theo dõi nên không thể nói gì
hơn. Cháu cứ cầm lấy con búp bê đi. Khi về tới nhà, cháu hãy lật mớ tóc huyền
của nó lên, cháu sẽ thấy một vật rất hữu ích bên trong.”
-
Lúc đó thì em cầm lấy con búp bê chứ? – Ông Hùng vừa hỏi tay vừa ghi lia lịa
trên cuốn sổ.
-
Vâng, em đã lấy con mặc áo đỏ. Rồi bà ta nói với em : “ Trả cho bà vài đồng
thôi, để nếu có ai rình rập, họ sẽ tưởng rằng cháu mua của bà”.
-
Sau khi bà lão đi khỏi, em vội chạy về nhà. Tới Thị Nghè, khi đi qua một quãng
đường tối, hai tên lạ mặt xông tới đoạt lấy con búp bê. Lúc ấy vì trời tối quá,
em không thể nhận rõ mặt chúng phải không?
-
Thưa ông vâng.
-
Họ có nói gì với em không?
-
Thưa ông, không, họ không nói năng một lời nào cả.
-
Nếu em gặp lại bà lão, em có nhận ra được bà ta không?
-
Thưa ông, em cũng không biết nữa. Nhưng em tưởng cũng khó có thể nhận ra được,
vì chiếc khăn vuông đã che gần kín hết mặt bà ta.
-
Nhưng còn tiếng nói của bà ta thì em đã nghe rõ chứ? Nó thế nào?
-
Tiếng nói khàn khàn.
-
Như tiếng một người hút nhiều thuốc lá phải không?
-
Thưa ông, em cũng không rõ. Nhưng em nhận thấy giống như tiếng một người đàn
ông. Vả lại, Đức cũng đoán rằng có thể là tiếng nói của một người đàn ông cải
trang.
Nhà
phóng viên bèn quay lại hỏi thằng nhỏ:
-
Căn cứ vào đâu mà em lại phỏng đoán như vậy?
-
Thưa ông, em nghĩ rằng một người phải có đủ can đảm mới dám hành động như thế :
bà lão thừa biết rằng làm như vậy rất nguy hiểm và bà sẵn sàng chịu đựng các
hậu quả xảy ra. Theo ý em nghĩ thì đàn ông thường có sự can đảm đó.
Ông
Hùng nhìn thằng nhỏ qua làn khói xanh rồi đáp:
-
Theo lý luận thì em nói cũng phải, nhưng ta cần phải thận trọng trong sự suy
luận, nếu không ta có thể bị lầm đường. Không hẳn rằng sự can đảm là một đức
tính riêng của người đàn ông. Thí dụ như chính ta có quen biết một thiếu nữ
hàng ngày chỉ vẽ những nàng tiên và sống với hoa cỏ, nhưng ta chắc rằng cô ấy
chẳng hề run sợ khi phải đối phó với một kẻ có khí giới trong tay, hay với một
con hổ dữ.
Chàng
nói xong mỉm cười nhìn cô Mai, cô quay đi mặt đỏ bừng vì e thẹn. Nhà phóng viên
lại tiếp tục hỏi cung, nhưng những câu hỏi ông đặt ra có vẻ như không mang lại
mấy ánh sáng cho vụ con búp bê bí mật. Tuy nhiên, ông vẫn ghi chép cẩn thận các
câu đáp. Do đó, ông biết rằng Thu Cúc đã sinh tại Nam Vang và sau khi mồ côi,
con nhỏ được bà Tảo – chị em họ với ba nó – đưa về sinh sống ở Saigon. Đột
nhiên, ông lại hỏi:
-
Bà Tảo đối xử với em ra sao?
Con
nhỏ ngập ngừng không đáp và cúi mặt nhìn xuống.
-
Ta muốn hỏi – ông Hùng nhắc lại – bà là người thế nào? Bà có tốt không? Có
thương mến em không?
-
Thưa ông, em cũng không rõ. Cô em lúc nào cũng gắt gỏng và mắng em hoài, thỉnh
thoảng bà còn đánh đập em và nói rằng bà chẳng lợi lộc gì khi lãnh em về nuôi.
Nhà
phóng viên vừa châm điếu thuốc thứ hai vừa hỏi:
-
Nhưng, nếu vậy, tại sao bà ta không tìm cách gởi em vào một viện mồ côi nào đó?
– Rồi ông đợi câu trả lời với vẻ mặt lo lắng.
Con
nhỏ lắc đầu nói:
-
Thưa ông, có một lần đã khá lâu, khi em còn đi học, bà giáo em đề nghị với cô
em để gởi em vào một hội từ thiện nhờ người ta trông nom cho. Nhưng cô em từ
chối…
-
Vậy à? – ông Hùng vừa nói vừa trầm ngâm nhìn theo làn khói thuốc – Bây giờ em
cho ta biết : thỉnh thoảng cô em có tiếp khách lạ nào ở nhà không?
-
Thưa ông không, đúng ra là em chưa thấy ai những lúc em có ở nhà.
-
Vậy tức là chưa bao giờ em bất ngờ được nghe thấy những mẩu chuyện, những câu
nói… Bà ta có nói gì khi đang mơ ngủ không?
-
Thưa ông, không bao giờ. Nhưng vào mùa hè năm ngoái, bà có bị một cơn sốt nặng
và ban đêm bà mê sảng. Bà kêu khóc và dãy dụa, bà muốn nhảy xuống giường và đột
nhiên em nghe thấy bà nói : “Anh Xuân, anh Xuân! Còn số tiền để về đây thì sao?
Tôi chẳng cần gì hơn, anh đã lừa dối tôi!” Khi cô em khỏi bệnh, em đã định hỏi
ông Xuân là ai, nhưng em sợ cô em nổi giận nên em lại thôi.
-
Bà ta dữ thế kia à? – nhà trinh thám vừa hỏi vừa mỉm cười – Thế còn câu chuyện
con búp bê, em có kể lại cho bà ta nghe không?
-
Thưa ông, không, em không nói gì cả.
-
Tốt lắm! Im lặng là vàng! Ai biết giữ mồm giữ miệng thì khó bị nhầm lẫn. – ông
Hùng kết luận và đóng cây bút máy lại.
Khi
đó, cô Mai tiến lại đưa cho ông Hùng miếng giấy còn sót lại trên đầu con búp
bê.
-
Thế còn sự bí mật của địa chỉ này, anh không có ý định khám phá ra hay sao? –
cô hỏi với một giọng bồn chồn.
Hùng
không đáp, cầm lấy miếng giấy bỏ vào ví rất cẩn thận.
-
Anh định làm gì vậy? – cô Mai hỏi.
-
Tôi đem về nhà để có thời giờ nghiên cứu.
-
Anh có ý kiến gì không?
Một
nụ cười bí mật thoáng trên môi Hùng.
-
Cô bạn tôi ơi – chàng nói với một giọng khôi hài – thế cô không dám đãi tôi một
tách cà phê tuyệt tác mà cô pha rất khéo chăng?
Cô
Mai vội vàng đi pha cà phê, vì cô biết rằng nếu Hùng muốn giữ kín một điều gì
thì dù có cạy răng chàng cũng không nói.
IX
BÀ
TẢO NHẬN MỘT NGƯỜI KHÁCH TRỌ
Ngồi
sau quầy hàng, bà Tảo đang mạng một đôi bít tất. Ngôi hàng vặt của bà hôm đó
chỉ có lơ thơ vài người khách vào mua.
Mắt
đeo mục kỉnh, bà Tảo vừa đan vài mũi vừa chống chỏi với giấc ngủ trưa, vì lúc
đó không khí thật yên lặng và hơi oi ả.
Bỗng
nhiên, một người đàn ông lạ mặt tiến vào, chào bà hàng và hỏi:
-
Thưa bà cho tôi một miếng xà bông thơm.
Bà
hàng lục trong cái hộp để trên quầy và lăng xăng hỏi:
-
Thưa ông dùng thứ nào? Chanh, xả hay hồng ạ?
Ông
khách đáp:
-
Tôi cũng chẳng rõ nữa. Thôi, bà cho tôi một bánh xà bông xả cũng được.
Ông
khách cầm xà bông rồi trả tiền, không cần mặc cả, nên bà Tảo thấy hả dạ lắm. Bà
mỉm cười hỏi khách:
-
Thưa ông có cần chi nữa không ạ?
-
Thưa không, như vậy là đủ rồi. Hay là bà có thể cho tôi hỏi thăm một chút được
không?
-
Thưa được ạ.
-
Vậy thưa bà, tôi đương muốn kiếm một phòng trọ có đồ đạc. Bà có thể chỉ giùm
tôi một phòng trọ nào cho mướn trong xóm này không?
-
Một phòng có đồ đạc ạ? Thưa, tôi không thấy có chỗ nào cả. Ông thử qua hỏi văn
phòng địa ốc bên trước cửa kia, có lẽ họ giới thiệu được.
Người
khách lắc đầu tỏ vẻ không muốn:
-
Không, tôi không muốn qua đó. Tôi chỉ cần một phòng trong một căn nhà tĩnh
mịch, mà chỉ nhận một mình tôi ở trọ thôi. Tôi có thể trả thêm tiền để có một
không khí gia đình. Tôi không còn trẻ trung gì nữa nên cần có tiện nghi trước
hết.
-
Ông nói phải lắm – bà Tảo trả lời với vẻ chú ý – Thế ông cần phòng đó trong bao
lâu ạ?
-
Thưa độ một tháng rưỡi thôi.
-
Có lẽ ông ở xa tới đây vì công việc.
-
Thưa không, tôi tới đây vì lý do sức khỏe. Chẳng là tôi bị bệnh phong thấp, nên
cứ đến mùa mưa là bệnh lại tái phát. Vì nhu cầu chữa bênh tôi muốn kiếm một
phòng trọ trong một gia đình có thể lo việc nấu ăn và giặt ủi cho tôi luôn thể.
Bà
Tảo thấy có cơ làm ăn được nên bà đáp:
-
Tôi hiểu lắm, chắc ông muốn kiếm một nhà nào như gia đình chúng tôi chẳng hạn.
Không phải dám nói khoe chứ chúng tôi nấu ăn khéo lắm, còn việc dọn dẹp lau
chùi nhà cửa là chuyện quá dễ dàng…
-
Vậy đúng là nơi mà tôi đang tìm kiếm, nếu bà có thể giúp cho tôi thì tốt quá.
Bà
hàng vội chắp tay và nói với một giọng ngọt như mía lùi:
-
Ông có thể hỏi bất cứ ai ở khu này, chưa bao giờ tôi cho ai thuê mướn phòng ở
và đây là lần thứ nhất đấy ạ.
-
Tôi thật cảm động hết sức, nếu bà chấp nhận tức là bà đã giúp tôi giải quyết
một vấn đề rất cần thiết. Tôi không có ai quen thuộc ở đây nên chẳng biết tìm
hỏi ai khác được.
Thấy
tư cách lịch sự của ông khách, bà Tảo rất vừa ý nên, sau một lát suy nghĩ, bà
đề nghị:
-
Vậy thưa ông, nêu ông ưng ý căn phòng mà tôi đang ở, tôi sẽ nhường lại cho ông,
nó giản dị nhưng sạch sẽ, và căn nhà thì yên tĩnh như một giáo đường ấy!
-
Thực vậy ư thưa bà? Nhưng tôi đâu dám để bà thiếu phòng ở? – người khách nói –
Thôi, xin bà bỏ qua chuyện này, tôi sẽ ráng đi kiếm nơi khác vậy.
-
Không ông ơi, điều đó không có gì là quan trọng cả. Tôi xin dẫn ông đi xem
phòng ấy ngay bây giờ nếu ông muốn.
-
Thưa vâng – người khách vừa đáp vừa tiến ra cửa.
Bà
Tảo bèn nhờ một bà hàng xóm trông hộ cửa hàng để bà đi cùng ông khách.
Đi
độ mươi bước đã tới nơi, bà Tảo vừa vặn chìa khóa vừa nói: “Như ông đã thấy,
căn nhà chỉ có một tầng lầu và tôi là người thuê duy nhất, ông không ngại phải
đụng chạm với ai cả”.
Bà
mở cửa, đứng né sang một bên và nói rất trịnh trọng: “Xin kính mời ông vào ạ”.
Lối
đi thì hơi tối, nhưng căn phòng có một cửa sổ lớn nên rất sáng sủa. Đứng ở cửa
sổ nhìn ra, người ta thấy những mái nhà xung quanh, bên trên có vài khóm cỏ mọc
và xa xa một mặt hồ nước trắng xóa.
-
Thưa ông coi được không ạ? – Bà Tảo hỏi – Ở đây không khí và ánh sáng mặt trời
thật là đầy đủ, lại còn trông thấy cả mặt hồ óng ánh như gương nữa.
-
Phòng này đẹp lắm – người khách vừa nói vừa nhìn xung quanh, rồi ông ta lại
hỏi:
-
Thưa, xin lỗi bà, bà ở đây có một mình, thế bà không có gia đình hay sao?
-
Tôi có một đứa cháu gái : nó là một đứa trẻ mồ côi mà tôi nuôi dưỡng vì lòng từ
thiện. Cháu đi làm cả ngày và tối về nghỉ ở phòng xép cạnh bếp ; như vậy chẳng
bao giờ ông phải gặp nó.
-
Dà, một cô cháu gái! – người khách nói với vẻ lơ đãng – Cháu bao nhiêu tuổi
rồi?
-
Thưa cháu 12 tuổi. Nhưng tôi xin nhắc lại là cháu không dám làm phiền gì ông
đâu! Xin mời ông đi coi nhà ạ.
Căn
nhà này vỏn vẹn chỉ có một phòng của bà Tảo, một phòng xép tối tăm để Cúc ngủ,
một căn bếp và một cái sân nhỏ chen vào giữa hai dãy nhà lầu.
-
Tôi thấy nhà bà cũng có cả một cái sân nữa, có phải không ạ? – ông khách hỏi có
vẻ ngạc nhiên. Bà Tảo vội đáp:
-
Vâng, cái sân này, xin để ông dùng luôn, chiều chiều ông ra đây hóng mát thì
tuyệt. Ngoài ra, ông chẳng cần chú ý đến các cửa sổ kia : Ngôi nhà bên phải
đang sửa chữa, không ai ở cả. Còn nhà bên trái thì chủ thuê đi nghỉ hè vắng,
hiện bỏ không, chỉ có một bà già chẳng bao giờ thò mặt ra đến cửa.
-
Như vậy được lắm. Nhưng xin bà đừng nghĩ rằng tôi muốn xa lánh mọi người. – Ông
khách mỉm cười đáp. Rồi ông hỏi tiếp:
-
Xin bà cho biết giá tiền một tháng là bao nhiêu ạ?
Bà
Tảo là một con người rất lý tài, nên bà không đáp ngay mà còn ngắm nghía ông
khách. Ông trạc độ tứ tuần, vóc người nhỏ bé, má bên phải có một vết sẹo và
trông ra vẻ con người “có tiền”. Khi bà Tảo nói giá hai chục ngàn một tháng, ông
khách chịu liền và nói:
-
Vâng, thưa bà mai tôi sẽ dọn đến và chồng tiền trọ một tháng trước.
Rồi
ông bước vào nhà, sau khi nhìn lại cái sân lần chót và nhất là hai cái cửa sổ
của nhà bên cạnh.
-
Thưa ông, Vâng ; ông tới lúc nào cũng tiện, hoặc ngay chiều hôm nay nếu ông
muốn – bà Tảo đáp với vẻ khúm núm.
Sau
đó, hai người xuống cầu thang và bà Tảo trở về cửa hàng, mặt mày rất tươi tỉnh.
Người khách đi ra một cách vội vàng, men sát bên tường và mũ kéo sụp xuống,
hình như sợ có ai nhận ra mình. Khi đi tới đầu đường, hắn ngoảnh lại thì thấy
có hai người đang đi theo hắn. Hắn liền nhẩy lên một chiếc tắc-xi và cho tài xế
một địa chỉ vu vơ. Xe vừa khởi hành thì hắn nghe phía sau cũng có tiếng xe chạy
tới. Hắn biết ngay là hai tên kia đã bám sát nên hắn phải tìm hết cách để bỏ
rơi chúng.
X
NGƯỜI
KHÁCH TRỌ KHÔNG TỚI.
-
Thưa cô, con đã về – Cúc đi bán hàng vừa về chào bà Tảo.
-
Ừ, sao mày về trễ vậy? – bà Tảo vừa khâu vừa đáp, mặt không thèm ngửng lên.
-
Thưa cô, con cũng về như mọi ngày đấy ạ.
-
Thôi câm mồm đi. Lại tao bảo đây, mày có may được cái riềm này vào tấm màn cửa
không?
-
Thưa cô, được ạ.
-
Vậy làm lẹ đi. Khi nào xong, sẽ ăn cơm – bà vừa nói vừa đưa cho con nhỏ một
miếng vải ba-tít trắng. Tiếng nói của bà đỡ sẵng hơn mọi ngày và bộ mặt bà cũng
đỡ càu cạu : món “áp-phe” bà vừa lãnh buổi trưa ngày nay làm bà tươi tỉnh hẳn
lên. Cúc tiến lại dưới bóng đèn ngồi khâu, im thin thít, không dám hỏi tấm màn
cửa này để làm gì. Nhưng bà Tảo đã bắt đầu kể cho nó nghe:
-
Mày chưa biết chuyện gì à? – Bà nói với một giọng đắc thắng – Kể từ ngày mai
nhà ta có một người khách trọ : tao đã cho một ông quí khách, giàu có lớn, từ
xa đến đây mướn căn phòng của tao vì lý do sức khỏe.
-
Thế ạ, thưa cô – con nhỏ hỏi một cách chăm chú.
-
Phải, sáng mai ông ta dọn đến. Vậy mai mình phải dậy thật sớm để lau chùi căn
phòng, rồi treo màn cửa và đánh bóng các đồ đạc.
-
Thưa cô vâng – Cúc đáp và hỏi thêm – Nhưng thưa cô, cô sẽ ngủ đâu ạ?
-
Thì có khó gì! Tao ngủ phòng mày, còn mày vào ngủ trong bếp, có gì mà phải áy
náy!
Con
nhỏ không đáp, nhưng có lẽ bà Tảo cũng thấy một vẻ bất mãn thoáng qua sắc mặt
nó, nên bà hỏi ngay nó với một giọng ví von rất khả ố:
-
Có lẽ nàng công chúa không vừa ý chăng, và nàng công chúa không muốn rời khỏi
phòng the chăng?
-
Thưa cô, con có dám nói gì đâu – con nhỏ đáp, mặt vẫn cúi gầm xuống món đồ
khâu.
-
Điều đó là dĩ nhiên rồi, vì mày không có quyền bàn cãi gì về những quyết định
của tao cả. Ở nhà này tao là chủ, biết chưa?
-
Thưa cô vâng.
Hai
người tiếp tục khâu vá trong im lặng, và thời giờ trôi qua một cách chậm chạp,
buồn bã. Cúc khâu rất cẩn thận, cố gắng cho đường kim mũi chỉ được nhỏ nhắn,
đều đặn. Nhưng nó cảm thấy một nỗi buồn vô tả tràn ngập tâm hồn. Để khuây khỏa
được phần nào, nó mường tượng lại những sự việc đã xảy ra ngày hôm qua, nhất là
những câu hỏi rất tỉ mỉ mà ông Hùng đặt ra. Nhà cựu thám tử có thể vén bức màn
bí mật lên chăng? Điều đó chưa ai có thể đoán trước được. Và nó thở dài nhè
nhẹ, sợ cô nó nghe thấy.
Khâu
màn cửa vừa xong, Cúc đi dọn cơm. Hai cô cháu ăn xong vội thu xếp đi ngủ, vì
đêm đã khuya.
Khi
nằm xuống giường, Cúc nghĩ đến tối mai nó phải nằm ở một xó bếp, nhưng nó tặc
lưỡi với thái độ dửng dưng. Thôi chẳng có gì quan hệ! Tối về nó đã mệt nhoài
thì ngủ đâu mà chẳng được. Thật vậy, lúc nó vừa đặt mình xuống thì nó đã ngủ
say rồi. Nó mơ thấy con búp bê đi nhè nhẹ tới gần nó, cúi chào nó rồi đưa hai
tay lên đầu lật mớ tóc ra. Cúc nhỏm dậy để định bắt lấy nó, nhưng con búp bê đã
ù té chạy vừa lắc đầu như có ý bảo nó hãy chịu khó kiên nhẫn ít lâu nữa.
Hôm
sau, bà Tảo đánh thức Cúc dậy từ bốn giờ sáng. Con nhỏ bắt tay vào công việc
trong lúc hãy còn ngái ngủ. Nó chải, rửa và lau chùi cật lực. Căn phòng bóng
lộn như một tấm gương và sau đó Cúc được tẩm bổ bằng một khoanh bánh mì cũ còn
thừa từ hôm trước. Trong khi đó cô nó đã mang bày ra giường một chiếc mền thật
đẹp, múc một bình nước, sửa soạn một chiếc khăn bông và một bánh xà bông thơm
để ông khách dùng. Sau bà ta mở hé cửa sổ, đưa mắt nhìn quanh một lượt và lấy
làm đắc ý lắm, rồi bà ta xuống nhà để mở cửa hàng. Một lát sau, Cúc cũng xuống
lấy chiếc hộp rồi chào cô nó để đi bán hàng.
Đứng
sau quầy hàng, bà Tảo đợi ông khách trọ.
Mong
suốt cả buổi sáng, đến khi đồng hồ điểm 12 tiếng mà bà Tảo vẫn chưa thấy ông
khách dọn đến. “Chắc chiều nay ông ta mới lại”, bà tự nhủ như thế để nén bớt sự
lo âu. Đồng hồ lại đánh 2 tiếng, rồi 3 tiếng, rồi 4 tiếng! bà Tảo đứng ngồi
không yên, hết ra cửa ngóng bà lại đi ra đến tận đầu đường, nhưng vẫn chẳng
thấy tăm hơi ông khách đâu cả.
Trời
đã tối, Cúc về tới nhà, vô tình hỏi thăm ông khách đã tới chưa. Bà Tảo đang bực
tức, nhân được dịp này bèn quát lên để trút bớt cơn giận lên đầu đứa cháu vô
tội:
-
Câm ngay, mày đừng tưởng đã thoát được một cách dễ dàng như thế đâu ; mày vẫn
phải nằm dưới bếp, dù người ta tới hay không, hiểu chưa?
Vậy
là xong chuyện. Như nó đã biết trước, con nhỏ vừa đặt mình trên manh chiếu rách
trải dưới đất là ngủ ngay. Còn bà Tảo thì chẳng làm sao chợp mắt được. “Tại sao
hắn nói xạo như vậy? Bà tự hỏi. tại sao hắn làm cho ta tin tưởng là hắn định
thuê căn phòng này? Chính hắn đã khẩn khoản và gần như buộc ta phải cho hắn xem
nhà đấy chứ! Tại sao hắn lại không lại?” Quá bực mình vì không tìm thấy câu trả
lời cho ngần ấy câu hỏi, nên lúc tảng sáng, khi trở dậy, bà vội vơ lấy tấm màn
cửa và xé tan tành ra tùng mảnh cho hả giận.
__________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG XI, XII, XIII