Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2019

Chuyện Trẻ Em


Tâm ngồi phân vân trước tập giấy trắng và cây bút đầy ắp mực mới hút. Anh ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn đám mây trắng bay lờ lững. Có tiếng chim kêu sau vườn và âm thanh quang quác của một chú gà đang ra sức há miệng gáy.

Chị Hiền bưng mâm bát chưa rửa đi qua. Tâm ngước mắt lên. Chị hỏi:

- Làm gì đó?

Tâm ngập ngừng:

- Viết... truyện!

Chị Hiền cười:

- Truyện con nít hả?

Tâm ừ một tiếng rồi lơ đãng cầm bút viết một chữ vô nghĩa lên tờ giấy trên cùng. Anh nghĩ thầm: "Truyện con nít đâu phải dễ viết".

Sau vườn lại có tiếng gà gáy. Tâm thêm bối rối. Thế là anh đã ngồi hơn một tiếng đồng hồ ở bàn mà giấy trắng vẫn hoàn giấy trắng. Tâm lẩm bẩm:

- Sao truyện con nít viết khó dữ ta?

Anh nhớ lại lời ông thư ký già ở tòa báo. Ông thường uống trà với anh trong căn phòng sạch sẽ, gọn gàng và đầy đủ tiện nghi. Bàn đến truyện cho trẻ con coi, ông thường phát biểu:

- Truyện loại đó hơi khó viết. Phải là người có tâm hồn yêu trẻ. Rồi lại phải có óc khám phá mới lạ, bởi trẻ em rất thích những truyện phi thường. Cốt truyện cũng cần hợp lý, hấp dẫn đồng thời có thể luồn vào đó những luân lý và tinh thần mã thượng...

Tâm nhận là đúng. Anh đang cố để viết một truyện có đủ các điều kiện đó. Nhưng "vạn sự khởi đầu nan", chưa gì ngòi bút của Tâm đã mắc kẹt. Vì thế, anh mới phải ngồi suốt một giờ đồng hồ để nghe gà gáy và lợn kêu ầm ỹ sau vườn.

*

Đám người vây quanh cụ già trên một khoảng đất rộng đang xì xầm bàn tán và chỉ trỏ vào một vật hình thể lạ lùng nằm khuất trong bụi dứa dại. Cụ già mặc quần áo bạc phếch, tóc trắng, râu dài nhưng đôi mắt sáng như hai hòn ngọc.

Cụ bảo với những người hiếu kỳ:

- Chưa xong. Còn thiếu mấy thứ nữa mới bay được...

Một thanh niên cật vấn:

- Phải chăng lúc nãy cụ ngã vì lý do đó?

Cụ già gật đầu, tay cho vào túi lấy một nắm cỏ đắp lên chỗ xây xát nơi đầu gối:

- Chú em nói đúng. Thiếu cái để hãm đà bay lại nên "nó" rơi thẳng vào bụi.

Một người đứng tuổi lắc lắc chai rượu cầm ở tay, miệng lơ đãng:

- Làm sao bay được nhỉ?

Cụ già mau miệng:

- Không có chi. Để tôi làm lại cho mọi người coi.

Thanh niên lúc nãy ngăn lại:

- Đâu được. Rồi cụ lại ngã cho coi...

Cụ già cười khanh khách. Tiếng cười to mà dòn, nghe vui tai lạ thường. Rồi cụ thản nhiên gạt tay thanh niên, lại gần bụi dứa.

Cụ bảo:

- Mấy anh khỏe tay giúp tôi chút...

Hai ba người xúm lại. Họ nhẹ nhàng nhấc vật thể lạ lùng  ra khỏi đám lá có răng cưa sắc bén. Cụ già chăm chú quan sát từng bộ phận một. Rồi cụ không ngửng đầu, nói to:

- Phiền chú nào lấy hộ tôi miếng giấy bản.

Giấy bản đem tới, cụ cẩn thận phết hồ lên cho ướt đoạn mới úp lên chỗ rách nơi cánh. Đám đông im lặng nhìn. Họ tỏ vẻ thích thú và vui vẻ được xem một trò chơi hay mắt.

Dán xong cánh bị thủng, cụ già thò hai tay nắm lấy hai gọng gỗ gắn liền vào hai cánh của cái vật biết bay. Cụ mím môi chạy thật nhanh trong khi tay cụ không ngớt đập mạnh.

Thanh niên lúc nãy nhìn theo, bảo bạn:

- Chắc cụ này có thuật "khinh thân".

Ông bạn chăm chú nhìn cái vật lúc ấy đã rời mặt đất, miệng trả lời:

- Dĩ nhiên khinh thân thì ai chả làm được. Cái khó là bay kia kìa.

Trên trời, vật lạ đang là là hướng theo chiều gió. Giống hệt một cánh chim trắng tung mình săn mồi dưới đất. Đột nhiên con chim giấy đó lảo đảo. Nó lao thẳng xuống. 

Đám đông "ồ" lên một loạt, chạy như bay đến phía cụ già đang nhảy vút khỏi con chim nhân tạo để tránh một cái ngã gãy lưng thứ hai. Giảm trọng lượng, vật lạ bay sà sà mặt cỏ, sau cùng húc vào một gò đất.

Cụ già thở phì phò. Mặt cụ đỏ gay nhưng lộ vẻ hân hoan rõ rệt. Đang lúc cụ nằm dài trên cỏ thì có tiếng rầm rập từ xa đưa lại.

Thanh niên hô to:

- Lính tới!

Đám đông như bị một quả bom giáng phải, mỗi người bay một phía. Phút chốc, giữa đồng trống chỉ còn mình cụ già với chiếc máy bay rách nát.

Toán người phía xa hiện rõ dần. Một đoàn ngựa đập tung bụi cát mang trên lưng toán người đó. Ai nấy đều vác búa bằng đá và cổ đeo một chuỗi lục lạc bằng xương động vật. Đấy là đoàn lính trấn thủ vùng này.

Người đi đầu, râu tua tủa như rễ tre, cổi trần, đóng một cái khố chéo, tay cầm khúc gậy đá đẽo nhọn đầu, vừa nhảy xuống ngựa vừa bảo cụ già:

- Quan thái thú muốn mời cụ tới dinh nói chuyện.

Cụ già nhỏm dậy, đưa mắt nhìn hắn rồi lại nhìn toán quân sau lưng hắn:

- Chuyện gì vậy?

Gã kia cộc lốc:

- Tôi không rõ. Cụ đến nơi sẽ biết.

Rồi nhanh nhẹn gã xốc nách cụ già đặt lên yên, miệng quát thủ hạ:

- Khênh cái diều giấy về dinh!

Con ngựa của gã quay trở lại trước tiên. Đám lính lẽo đẽo theo sau, lục lạc ở cổ chúng rung lên từng hồi hỗn độn và rộn rã.

*

Qua khỏi cái cổng đá méo mó nhưng rắn chắc, cụ già được dẫn vào gặp mặt viên thái thú trong một căn phòng rộng thênh thang, đồ đạc bày lỏng chỏng.

Lão thái th1u đã già, ngoài bẩy mươi. Nhưng lão còn quắc thước. Lúc cụ già còn đang đứng ngơ ngác giữa khung cửa đá thô sơ chạm trổ nguệch ngoạc, lão thái thú còn bận ăn uống. Một tay lão cầm nửa con gà rừng thui, tay kia lão nhấc một vại đá đựng nước đưa lên miệng tu ừng ực. Dáng điệu lão thật thô lỗ, nhưng không lạ mắt đối với cụ già. Cụ tiến vào, tìm một cái ghế, ngồi im và theo dõi thái thú của cụ.

Một khoảng thời gian sau, hai người mới vào bàn nói chuyện. Đại khái lão thái thú muốn cụ già dạy lão, cách điều khiển con diều giấy khổng lồ để mỗi khi rảnh rỗi lão có thể bay đây bay đó ngắm nhìn dân tình và phong cảnh v.v...

Cụ già thẳng thắn:

- Điều ấy không có chi khó. Ai làm cũng được.

Lão thái thú nghi ngờ:

- Thật chứ?

- Thật. Chỉ cần ba điều: thân thể dẻo dai, tâm hồn phóng khoáng và biết chút bí thuật về võ học.

Thái thú mừng sáng mắt. Lão đưa gà thui cho cụ già ăn và rót đầy bát nước đưa đến tay cụ. Cụ già lắc đầu, chỉ uống nước. Thái thú ngạc nhiên:

- Sao vậy?

Cụ già giảng giải:

- Ăn thịt thì thân thể không dẻo dai đâu.

- Thế thức ăn của cụ là gì?

Cụ già cười khì:

- Tất cả những gì ngoài thịt và cá.

Lão thái thú gật gù ra vẻ hiểu biết. Lão ân cần dắt tay cụ già ra tận cửa. Hai người giã từ. Cụ già lững thững đi trước một quãng xa, chợt như nhớ điều gì, cắm đầu cắm cổ chạy ngược trở lại.

Lão thái thú vẫn đứng ở cửa. Lão hỏi "chuyện gì thế?"

Cụ già thở hổn hển:

- Con diều giấy của tôi đâu?

Lão thái thú cười:

- Chưa thể trả cụ được. Tôi cần giữ ít lâu để xem xét.

Cụ già ngần ngừ:

- Không được. Tôi cần nó để đi xa có việc cần...

Người đối diện cụ vẫn lập lại:

- Chưa thể trả cụ được...

Cụ già nổi giận:

- Diều của tôi! Tôi muốn lấy lúc nào cũng được! Trả đây!

Lão thái thú gằn giọng:

- Vào vườn sau mà lấy!

Cụ già hấp tấp chạy ra phía sau. Hai tên lính ngăn cụ lại. Cụ giằng tay chúng ra, tiếp tục đi tìm con diều thân yêu của cụ.

Đằng sau một bụi cây rậm rạp, cụ thấy ló lên cái đuôi trắng quen thuộc. Lập tức cụ bổ nhào đến.

Nhưng một gã lính dữ tợn khác lại đột nhiên lộ diện. Gã giơ tay cản cụ. Máu dồn lên ở mặt, cụ lại gạt gã sang bên cạnh. Nhưng tên lính này khỏe kinh khủng. Gã nắm lấy gáy cụ, ném vào góc vườn. Cụ già không ngờ điều này, nên đang khi bay bổng lên không, sắp sửa chúi đầu xuống đất, cụ chao mình, đứng vững như cột đá.

Gã lính bối rối. Gã biết là gặp phải một địch thủ đáng ngại. Vội vàng gã xuống giọng:

- Xin cụ nể tình hiểu cho tôi. Tôi có phận sự canh giữ con diều ấy...

Cụ già chẳng đợi gã nói hết câu, nhẹ nhàng nhẩy qua bụi rậm. Gã lính hoảng hốt giơ khí giới lên định cản lại. Chỉ thấy cụ già hừ một cái rồi tóm luôn cái búa, ném bay mất hút. Trong khi gã kia xanh mặt, cụ đã nhẩy qua khỏi chướng ngại ngăn đôi cụ với con diều quý báu.

Khu vườn khá rộng. Muốn thoát cụ phải chọn hai đường: hoặc chạy thẳng ra cửa, hoặc bay khỏi dinh quan thái thú.

Toán lính đã được tăng cường, chúng chạy vào vườn rầm rập như bắt giặc. Mỗi tên đeo một khí giới ngắn bên hông, tay cầm cung nỏ đã lắp tên sẵn sàng. Nhưng chúng chưa được lịnh bắn. Cụ già lợi dụng lúc đó, vác con diều lên lưng rồi tháo chạy khuất sau một hàng cây um tùm.

Vút! Vút! Vút! Tên bay theo rít gió nghe rợn người. Thân cây cạnh chỗ cụ vừa rẽ lỗ chỗ đầy tên. Đám lính hò nhau đuổi theo.

Cụ già khéo láo chạy lách giữa những thân cây xanh tốt. Con diều sau lưng không đủ làm một cái mộc che tên. Cụ phải tính đường thoát thật nhanh.

Bầy lính vẫn lẽo đẽo phía sau, vừa thở vừa lắp tên, bắn theo ríu rít. Những mũi tên quay tít trong không khí rồi sau cùng ghim đầy những thảo mộc ven đường tẩu thoát của cụ già.

Chạy một hồi lâu, cụ già thấy trước mặt lố nhố bóng người. Lại toán lính. Bọn này láu thật - cụ nghĩ thầm - nhưng còn khuya tụi bay mới vớ được ta. Vừa lẩm bẩm, cụ vừa rẽ vào một ngõ hẻm trước mắt. Con đường này lâu ngày không có ai qua lại, xác lá vàng ngập đầy mặt lộ. Hai bên đường, cây cối mọc chằng chịt. Mải chạy, cụ già cũng chẳng còn thì giờ để phân biệt các loại thảo mộc đó nữa, mặc dù ngày thường cụ rất thích tìm hiểu về chúng.

Vút! Cụ già oái một tiếng. Thế là đã có một mũi tên trúng đích. Cụ khập khiễng. Con diều giấy trên lưng xộc xệch và có vẻ như muốn rớt. Cụ già nghiến răng, nhổ phăng mũi tên khó chịu đang lủng lẳng ở bắp đùi. Máu vọt ra có vòi, ràn rụa suốt chân dưới. Cụ vội vã móc nắm cỏ mang bên mình, rịt vào vết thương đoạn tiếp tục lao đi vun vút. Đám lính vẫn còn bị bỏ rơi một khoảng khá xa. Chúng la hét rầm rĩ và móc hết mũi tên này đến mũi tên khác bắn theo.

Qua khỏi con đường chật hẹp, cụ già gặp một đứa bé. Nó có đôi mắt thật to và thật đen. Vừa thấy khuôn mặt nó, cụ già đã mến ngay. Cụ vừa chạy vừa ngoái cổ lại hỏi to:

- Đi chơi với lão không cháu?

Đứa bé cười. Nó lắc đầu. Cụ già thấy buồn bã. Chân cụ dần chậm lại. Rồi cụ bỗng đổi hướng, chậm chạp quay về phía đứa bé. Đứa bé thấy cụ già, toét miệng cười. Cụ già quỳ xuống đặt con diều giấy lên mặt đất rồi bế nó, miệng lẩm bẩm:

- Thằng bé có tướng tốt quá. Không thể nào tìm nổi một đứa nhỏ như thế này được...

Cụ nhìn chăm chú vào đôi mắt của nó. Đôi mắt thật giống đôi mắt của cụ. Đôi mắt thông minh, giầu sáng kiến và phóng khoáng. Cụ bảo nó:

- Cháu thích đi chơi với lão không?

Đứa bé đưa tay chỉ con diều giấy:

- Cháu chỉ thích cái kia thôi...

Cụ già vui vẻ:

- Để lão cho cháu xem.

Cụ dựng cao con diều. Gió thổi phần phật qua những lỗ hổng rách làm đám giấy bản càng tả tơi thêm nữa. Đứa bé trố mắt nhìn. Nó có vẻ tò mò lẫn thích thú. Nó khe khẽ đưa tay rờ rờ vào mấy thanh tre lớn dùng làm khung con diều. Cụ già chăm chú nhìn nó, miệng mỉm cười sung sướng.

Toán lính đến sau lưng cụ lúc nào không biết. Bọn chúng có dáng điệu ngạc nhiên xen chút bối rối. Cụ già thì như không thèm để ý đến sự hiện diện của chúng, vẫn thản nhiên đùa với thằng bé và con diều giấy to lớn của cụ.

Cụ bảo:

- Để rồi lão sẽ làm cho cháu một con. Bằng lòng không?

Đứa bé lại cười. Ôi chao, nụ cười của nó sao tươi đến thế, cụ già thấy mát rợi trong lòng. Cụ cầm tay nó đứng lên, tay kia cụ xách con diều.

Toán lính vẫn xúm xít chung quanh. Cụ già hơi lạ lùng không hiểu. Nhưng cụ già thản nhiên lại ngay, cẩn thận nhìn quanh một vòng rồi mới từ từ đi về phía đồi xa.

Toán lính nhìn nhau rồi chợt quay đầu lại theo dõi một đám bụi ở phía xa đang lớn dần.

Đó là viên thái thú, lão đang cưỡi ngựa hấp tấp phóng đến, mặt lấm tấm mồ hôi. Lão nhảy phóc xuống ngựa, chyạ ùa lại phía cụ già và đứa bé, miệng kêu rối rít:

- Con của cha! Con của cha!

Cụ già ngỡ ngàng nhìn đứa bé rồi lại nhìn lão thái thú già nua trước mặt. Cụ thấy bối rối.

Lão thái thú nắm tay đứa bé, âu yếm:

- Con chơi xa quá ; cha tưởng con lạc rồi chứ.

Đứa bé, một tay nắm tay cụ già, một tay nắm tay cha, mỉm cười. Nụ cười làm cho lòng lão thái thú nở hoa. Nụ cười làm cụ già thấy mát rợi tâm hồn. Bất giác, cụ nhìn sang lão thái thú thì cũng gặp lão đang nhìn mình. Hai nụ cười nở một lúc trên hai cặp môi già nua, cằn cỗi.

Ba người, hai già, một trẻ, im lặng nhìn nhau trong ba nụ cười xuất phát tận những chỗ chân thực nhất của tâm hồn. Con diều giấy đứng cạnh họ, phần phật tiếng giấy kêu trước gió như nụ cười thứ tư, ròn rã và đầy ý nghĩa.

*

Chờ cho chị Hiền xem hết, Tâm mới nhỏ nhẹ:

-Chị thấy thế nào?

Chị Hiền chậc lưỡi:

- Lạ lùng!

Tâm gấp chuyện lại:

- Em cũng nghĩ như chị. Song đây chắc chắn là một chuyện thiếu nhi.

Chị Hiền tiếp lời:

- ... Và cũng đồng thời là một chuyện người lớn.

Tâm gật đầu. Anh lấy một băng giấy, phong tập truyện lại rồi thẫn thờ nhắc lại lời chị Hiền:

- Phải... một chuyện cho cả người lớn.


Ái Phương Long      

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 97, ra ngày 15-11-1968)

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2019

Chiều Thứ 7


Cứ mỗi chiều thứ bẩy là nhà Phương lại nhộn nhịp hẳn lên, chả bù với mọi ngày cửa nhà Phương đóng im ỉm như nhà bỏ hoang ấy! Buồn thật buồn...

Ngày thường thì ai cũng bận cả. Này nhé: Ba đi làm xa, ở mãi tận Biên Hòa cơ, nên cả tuần ba mới được về có chiều thứ bẩy và sáng thứ hai ba lại phải đi ngay. Anh Hoàng thì phải lên Saigon trọ học ở nhà bác Văn, nhân tiện anh kèm học mấy đứa con của bác ấy. Còn chị Nhật thì đi nội trú ở trong trường. Và cứ ngày thứ bẩy là lại kéo nhau về vào buổi chiều.

Vì thế ở nhà chỉ còn có má, Phương và bé Trang thôi. Má thì bận cả ngày, hết nấu cơm lại dọn dẹp nhà cửa hay bồng bé Trang. Trang mới được có mấy tháng thôi, bé hay ngủ ghê lắm. Cho nên Phương chả biết chơi với ai được cả. Ngoài giờ đi học Phương chỉ chơi với con búp bê My-Ly mà ba đã mua cho Phương kỳ lễ Giáng-sinh năm ngoái. Thỉnh thoảng má nhờ Phương trông hộ bé Trang, mà Phương chỉ được ngồi hay nằm im cạnh bé Trang thôi. Phương thích bồng bé Trang lắm nhưng má vẫn dặn:

- Con phải nằm im, đừng có bồng em, không em khóc má nấu cơm không được má đánh nghe không?

Nhiều lần Phương đã định "bồng thử" em nhưng bé Trang mập và nặng quá nên Phương bồng không nổi, Phương đành ngồi im lặng nhìn em bé Trang, nhìn rèm mi khép kín, đôi má bầu bĩnh, cái miệng nho nhỏ của bé Trang. Phương yêu bé ghê lắm nên Phương hay cúi xuống hôn vào trán em. Có lần Phương đã cắn cả vào má em khiến em khóc thét lên làm má phải vội vàng chạy lên. Vừa bồng em, má vừa hỏi:

- Phương làm sao em thế? Bồng em phải không?

Phương lo sợ lắc đầu. Má bỗng khám phá ra vết răng còn in trên má bé Trang, má cười hỏi:

- Có phải con cắn vào má em phải không?

Phương cười theo, khẽ gật đầu. Má bảo:

- Con cắn em bé, em bé đau rồi đây này... Từ nay không được hôn em nữa nghe không! Ai lại yêu em mà cắn em như vậy bao giờ...

Kể từ đó Phương chẳng dám đụng tới bé Trang sợ bé khóc. Phương chỉ ngồi nhìn bé thôi... buồn buồn là ấy!

Phương chỉ mong sao chóng đến ngày thứ bẩy, anh Hoàng, chị Nhật về chơi với Phương thôi...

Hôm nay đã là ngày thứ bẩy. Chắc ba và các anh, chị của Phương cũng sắp về rồi... Thế mà mưa lại dầm dã từ sáng đến giờ, mưa không to lắm, chỉ lất phất thôi, chị Nhật thường bảo mưa này là mưa bụi... Trời mưa nên phố vắng vẻ ghê lắm. Phương đã đứng đợi từ lâu rồi, Phương đứng bên cửa sổ nhìn ra đường chờ đợi bóng dáng quen thuộc của ba, anh Hoàng hay chị Nhật... Như mọi khi thì ba thường về sớm nhất, rồi tới anh Hoàng, sau cùng, gần tối chị Nhật mới về...

Hôm nay trời lại mưa, không biết ba và anh, và chị Phương có về không?... Ồ! Nếu ba không về thì buồn vô cùng. Này nhé: mỗi thứ bẩy má biết ba về nên thường sửa soạn bữa ăn chiều thật ngon cho ba dùng và hiện giờ má cũng đang cặm cụi nấu cơm ở trong bếp... Nếu ba không về thì sự thiệt hại nhiều nhất là về má. Bữa cơm chiều nay sẽ thừa nhiều đồ ăn ngon của ba, công lao khó nhọc của má kể như tan biến và chắc là má sẽ buồn lắm, mà má buồn thi Phương vui thế nào được?

Rồi tới anh Hoàng, kỳ trước anh bận ra Dalat với mấy người bạn nên thứ bẩy tuần trước vắng anh. Vắng anh Hoàng nên chiều thứ bẩy hôm đó kém vui, vì anh Hoàng là một cây chọc cười kia mà! Trong bữa cơm đó, má đã nói:

- Vắng thằng Hoàng thật buồn...

Chắc chắn kỳ này anh Hoàng sẽ phải về. Nếu anh không về, ba má sẽ buồn lắm và riêng Phương sẽ mất một "nguồn lợi" riêng...

Số là mỗi tuần về, anh Hoàng đều dành cho Phương một gói kẹo "suynh-gôm" thiệt to và sáng hôm sau, chúa nhật, anh lại cho Phương đi coi Đại nhạc hội, tuyển lựa ca sĩ hay coi ciné. Sau đó Phương lại được anh cho đi ăn kem ở "Kinh Thành" nữa cơ! Nếu anh Hoàng không về như tuần rồi chẳng hạn, Phương sẽ mất hết tất cả.

Còn chị Nhật nữa, mỗi lần chị không về, sáng chúa nhật Phương sẽ phải đi lễ với má - Điều mà Phương không muốn chút nào - Phương chỉ muốn đi lễ với chị Nhật thôi... Chị Nhật vào ban Ca-Vịnh ở nhà thờ nên chúa nhật nào đi lễ chị cũng phải lên gác đàn để đánh đàn cho các chị khác hát lễ và lẽ tất nhiên Phương cũng được lên gác đàn với chị. Phương cảm thấy hãnh diện ghê lắm vì có đứa nào bằng tuổi Phương mà lại được lên gác đàn đâu? Trong cặp mắt thơ dại của bọn trẻ con khác Phương đọc được những ánh mắt thán phục lẫn ước ao...

Xem lễ xong, chị Nhật còn chở Phương bằng xe Vélo tới nhà các bạn của chị... Đi đến đâu Phương cũng được các chị bạn của chị Nhật nựng nịu và cho Phương đủ thứ để... lấy thảo - các chị ấy bảo thế - Chị Huyền hay cho Phương ổi, những trái ổi xá-lỵ xanh mướt nhai dòn dã thật hấp dẫn. Chị Ngọc hay cho kẹo Chocolat, chị Bích hay cho nhãn, chị Tuyết hay cho bánh bông lang. Còn nhiều, nhiều lắm nhưng Phương chẳng đếm được đâu! Lúc về nhà Phương no cả bụng, phải cho cả anh Hoàng ăn nữa mới hết đấy!...

Có ba, có anh Hoàng, có chị Nhật vui thế đấy! Vui cứ như đại nhạc hội ấy chứ... Thế mà hôm nay không biết có ai về với Phương không? Lạy trời cho ba, anh Hoàng, chị Nhật về với Phương. Đứng đợi đã lâu mà chẳng thấy gì, Phương chán nản chạy xuống bếp ngồi cạnh má xem má làm bánh. Phương hỏi:

- Má làm bánh này cho anh Hoàng hở má?

Má cười:

- Ừ, anh Hoàng anh ấy thích bánh này lắm!...

- À, má ơi hôm nay ba có về không má nhỉ?

- Tuần nào ba chẳng về!... Chắc hôm nay trời mưa nên ba về trễ đấy! À Phương lên coi em Trang dậy chưa hộ má với!

Phương vâng lời chạy lên nhà: Bé Trang còn đang ngủ trong nôi. Phương khẽ ru em rồi lấy tờ báo Tuổi Hoa của chị Nhật mua cho tháng trước xem lại cho đỡ buồn... Phương chỉ mới biết đọc sơ sơ thôi đấy nhé nên Phương vẫn phải nhờ má giảng thêm mới hiểu được. Phương thích nhất là những truyện bằng tranh và cái bìa báo nhiều màu sắc... Phương chăm chú nhìn con bé đang gặm trái táo ở ngoài bìa báo... Chắc con bé này cũng chỉ bằng Phương thôi, con bé trông thật kháu khỉnh. Phương chẳng biết "kháu khỉnh" là thế nào cả nhưng thấy khuôn mặt bầu bĩnh ngây thơ của con bé, Phương đoán đó là "kháu khỉnh", thế thôi...

Bỗng đôi mắt Phương bị bịt kín bởi hai bàn tay lành lạnh của người nào đó, Phương bỗng thấy sợ hãi... hay là ma?!? Phương toan khóc nhưng chợt nhớ ra. Phương reo lên mừng rỡ:

- Ba!... Phải ba không ba?

Một giọng cười dòn nổi lên đồng thời đôi bàn tay bịt mắt Phương cũng bỏ ra. Phương chớp chớp đôi mắt rồi vội vàng quay lại: Thì ra anh Hoàng! Anh Hoàng cười to:

- Ê! Em tôi lầm to kìa!... Ba đâu mà ba!

Anh Hoàng móc áo mưa lên mắc trong khi Phương lắc đầu phụng phịu:

- Bắt đền anh đấy! Ai bảo anh bịt mắt em...

- Đền cái gì bây giờ? À mà anh có kẹo "suynh-gôm" cơ!... Ai bảo Phương giận anh? Mà giận thì hết được ăn kẹo.

Phương cố nở một nụ cười thật tươi:

- Thôi Phương không bắt đền anh nữa đâu...

Anh Hoàng cười to và lôi từ trong cặp ra nào kẹo, nào mè xửng, nào mận Đàlạt... lại còn có hoa Pensée ép nữa chứ!...

Phương hỏi:

- Của Phương hết cả, phải không anh?

- Ừ.

Phương cầm gói kẹo, cười hóm hỉnh:

- Phương sẽ để dành cho chị... Thanh một cái kẹo nghe anh?

Anh Hoàng đỏ mặt trông thật... có duyên:

- Có một cái kẹo thôi à? Chị ấy không ăn đâu!

Cả hai anh em cười to, vui vẻ...

- Cái gì mà hai anh em vui dữ vậy?

Cả hai giật mình nhìn ra cửa. Phương reo lên:

- A! Ba về! Ba về má ơi!

Phương nói ríu rít như một con chim non:

- Vậy mà con cứ tưởng ba không về chứ?

Ba cười, khẽ véo đôi má phinh phính của Phương:

- Ba phải về chứ? Vì ba biết rằng nếu ba không về Phương của ba sẽ khóc cả tuần mất thôi!... Thế nào? Tuần rồi Phương có ngoan không? Bé Trang có hay khóc không?

- Có ba ơi! Bé Trang hay khóc lắm, con phải trông bé Trang cho má nấu cơm đó ba!

- Thế à? Ngoan ghê nhỉ?

Vừa lúc ấy má từ dưới nhà lên, má bảo:

- Thôi, mình và Hoàng đi rửa mặt thay quần áo đi, áo quần ướt hết cả rồi.


Anh Hoàng hỏi:

- Phương ơi! Chị Nhật về chưa em?

Má đỡ lời:

- Chưa, chắc nó chẳng về đâu, mưa thế này...

Có tiếng Vélo kêu dòn đằng trước, Phương chạy ra:

- Má ơi! Anh Hoàng ơi! Chị Nhật về đây này!

Má bảo:

- Mưa thế này về làm gì cho khổ, đường sá xa xôi nữa.

Chị Nhật dắt xe vào nhà, Phương níu lấy áo chị:

- Chị Nhật ơi! Có mua báo Tuổi Hoa cho em không?

- Gớm! Vừa về tới nhà đã đòi nợ chị như vậy sao?

Tuy nói như thế nhưng chị vẫn vui vẻ đưa cho Phương tờ báo. Phương đón lấy, chạy lại chỗ anh Hoàng:

- Anh Hoàng đọc cho em nghe đi...

*

Tối hôm đó thứ bẩy dưới ánh đèn néon xanh dịu, cả nhà Phương ngồi quanh mâm cơm nóng hổi, khói bốc nghi ngút... Ba lại kể chuyện ở Biên hòa cho cả nhà nghe như mọi khi, anh Hoàng lại pha trò khiến mọi người cười vang nhà, chị Nhật lại vui vẻ kể các việc học hành cho ba má nghe, bé Trang vẫn ngồi trong lòng má, đôi mắt bé mở to trông thật dễ thương. Còn Phương, Phương nhìn hết ba, má, anh Hoàng, chị Nhật đến bé Trang mà quên cả ăn (mặc dù má và chị Nhật làm các món ăn hôm đó thiệt ngon, rất ư là "thích khẩu" với Phương). Phương sung sướng trong cảnh gia đình đầm ấm, lẩm bẩm qua nụ cười hài lòng:

- Chiều cuối tuần thiệt êm ấm.

Không hiểu ba, má và anh, chị của Phương có nghĩ thế không?


NHẬT THƯƠNG    

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 34, ra ngày 25-11-1965)

Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2019

Thoáng Bâng Khuâng

Em đi bằng khép nép
Màu mắt vỡ lang thang
Nhung tơ đời chiếc kẹp
Về khép lối hoa đan

Áo em hồng trong nắng
Tôi đếm bước bâng khuâng
Như cung mùa thu lắng
Một chút hờn khẽ dâng

Khung vuông ngày tháng mới
Nghìn hoa mộng vương vương
Êm mơ dòng đá sỏi
Mà lất phất hơi sương

Và điểm mừng trên tóc
Nhốt em vào cổng trường
Lời chúc đầu niên học
Lời chúc có thoảng hương?

                                  Châm Khanh
                               (vườn kinh thánh)

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 13, ra ngày 5-11-1971)

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2019

Thời Trung Học



Cho tới giờ tôi vẫn không hiểu tại sao tôi chẳng ưa thích chút nào những năm học trung học, mặc dù tôi đã phải trầy trật, rớt lên rớt xuống, cố công thi đậu cho bằng được vào trường trung học công lập để cha mẹ khỏi phải đóng học phí, nếu lỡ thi trượt phải học trường tư, huống hồ gì đó lại là ngôi trường có bề ngoài bề thế uy nghi cổ kính, còn danh tiếng thì lẫy lừng nhất nhì thủ đô, và quy tụ toàn những vị giáo sư ưu tú, có uy tín... Nghĩa là chỉ toàn thấy tinh hoa, một khi hưởng đặc ân được ngồi học dưới mái trường đó.

Vốn tính khó chịu và không thích a dua, tôi chỉ tin vào nhận xét của chính mình, và bỏ ngoài tai những lời tán dương, ca tụng  trường của bất cứ ai. Vì vậy, dù đã đọc qua những vần thơ áng văn hay trong đặc san xuân của trường,  vô số những ý nghĩ, cảm xúc  tốt đẹp của những bậc đàn chị ghi lại trong lưu bút, trên các trang báo in, trên những websites nói về trường, tôi vẫn một mực dửng dưng không có chút tình cảm về ngôi trường thời trung học! 

Có lẽ tôi muốn viết những giòng hồi tưởng này để tìm ra nguyên nhân của sự thờ ơ, vô tình, chớ không tới nỗi ác cảm,  của tôi đối với trường/những tháng năm trung học chăng?

Cô giáo dạy Việt văn lớp đệ thất của tôi tên là AT, người Huế. Ăn nói nhỏ nhẹ, dễ thương nhưng vẫn nghiêm nghị, và rất thích màu kem, tôi thường ví cô như một bông hoa ngọc lan, mặc dù cô lái xe hơi đi dạy, tưởng chừng không được nữ tính cho lắm. 

Nhưng năm đệ thất tôi ấn tượng nhất với cô giáo tên U dạy môn Công Dân Giáo Dục. Giờ Công Dân Giáo Dục rất là thích, vì chỉ việc say sưa, mê man ngồi nghe cô kể hết chuyện này tới chuyện khác. Ngày xưa đâu đã có internet, nhưng phải công nhận một điều cô là một pho sách sống, một cuốn tự điển, và hơn cả thế nữa, là một thư viện biết đi. Cho tới giờ này, tôi vẫn còn nhớ như in những lời cô giảng dạy, thông qua truyện kể,  về lòng trắc ẩn, nhân đạo chúng ta nên có đối với ngay cả súc vật, vì có những kẻ chỉ để phục vụ cho khẩu vị của mình, đã nuôi gà trong ống tre khiến gà ốm nhách vì chỉ được phát triển theo chiều cao, lúc lại nung ngói thật nóng rồi đặt bồ câu lên nướng sống trên đôi chân, để máu dồn hết xuống phía dưới rồi chỉ chặt lấy cặp chân ấy mà ăn cho bổ..... không màng tới việc dù là súc vật, chúng cũng biết đau đớn, buồn bã như ta.

Có vài kỷ niệm nho nhỏ vui vui  vào năm tôi học đệ thất. Dùng phương pháp trực quan sinh động, thày (cô) giáo dạy vạn vật đã yêu cầu bài nào thức nấy, học sinh phải mang "hiện vật" tới lớp để quan sát,  giúp cho việc học thêm dễ dàng. Tới hôm học đến loài nhuyễn thể, lũ bạn cùng lớp rủ tôi cùng đi vạch lá tìm sâu, để  bắt ốc sên trong sân trường. Xui xẻo làm sao mà tôi đã lần mò tới phạm vi nhà (trong trường) của cô tổng giám thị nên bị chó rượt theo cắn phập vào bắp chân. Hôm sau tôi được nghỉ học để theo cô tổng giám thị đi xích lô tới Viện Pasteur chích ngừa bịnh dại. Nhìn ngó một lát, bác sĩ nói rằng chẳng sao, không phải chích mũi nào! Thật là hú vía!

Một, hay nói đúng hơn là hai trong một, kỷ niệm khác khiến tôi tin rằng người ta  có lý do khi nói "học tài thi phận". Vào kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt (học kỳ 1 theo cách gọi bây giờ) môn Công Dân Giáo Dục năm đệ thất, bài vở rất nhiều nên đầu óc tôi cứ bấn loạn hết cả lên.  Tôi nhớ mình đã phải nào học chữ, nào học hình (luật đi đường) lung tung nên khi tới giờ thi, đầu óc tôi đã thành một mớ bòng bong. Tôi cứ vẽ bừa hết tròn rồi vuông những bảng hiệu giao thông, tới khi vẽ bảng "gần tới đường xe lửa" thì đã chán vẽ vuông, tròn tôi quay ra vẽ đại hình tam giác để thay đổi!  Còn giờ thi Nhạc lý cũng vậy, ở trên bục cô xướng âm nốt gì thì dưới đây học sinh phải ghi ngay nốt đó vào khuông nhạc. Tôi chỉ có thể chăm chú ghi những nốt đầu. Càng về sau hình như cô đọc càng nhanh khiến tôi bị áp lực nên mất hết bình tĩnh, thế là tôi cứ ghi bừa (xin thề có Trời, Phật, Chúa... chứng giám là tôi nói thật 100%). Nhưng ôi cha mạ ơi! Khi nghe kết quả hai môn thi nớ, tôi không thể nào tin nổi là mình đều đứng đầu lớp!

Năm lớp 10 tôi chọn ban Văn, Sinh ngữ. Trong niên học này chúng tôi phải học thêm sinh ngữ 2 là Pháp văn. Đầu năm có một bạn nữ sinh rất xinh xắn, da trắng bóc, môi đỏ như son ở trường trung học dưới Tân An mới chuyển lên, tên là Hoàng Thị Ngọc Quang. Cha mẹ bạn nghe nói đều là bác sĩ. Môn nào bạn cũng đứng nhứt lớp, toán, Anh văn, sử địa, lý hóa... cũng rất giỏi, hát cũng rất hay, (tên cũng rất đẹp nữa), nhưng tôi ấn tượng nhất là khi tới giờ Pháp văn, cô giáo người Pháp luôn luôn gọi Ngọc Quang đứng lên đọc bài học thuộc lòng tiếng Pháp, có lẽ để làm mẫu. Cả lớp đang cười đùa giỡn hớt bỗng im phăng phắc để nghe tiếng của bạn hay như tiếng hót của một loài chim quí nhất, cứ véo von, líu lo, ríu rít  nghe lịm cả người. Hầu như tất cả các bạn khác trong lớp tôi đều ganh ghét Ngọc Quang, vì cho rằng họ là học sinh thủ đô nhưng lại bị làm bẽ mặt  bởi dân trường tỉnh, và đã có những lối xử sự không đẹp. Có lần tôi còn nghe hai bạn nọ nói bâng quơ,  Elle a un bec, (Cô nàng có một cái mỏ) khi Ngọc Quang đi ngang qua họ. Số là NQ có hơi hô chút xíu nhưng tôi thấy bạn ấy vẫn dịu dàng, xinh đẹp như thường. Tỏa bao nhiêu ánh hào quang dĩ nhiên là rất thú vị rồi, nhưng bị ganh tị thì vô cùng đau khổ. Điều này phải lên tới đại học tôi mới phải nếm trải. Niên học lớp 10 được nửa năm thì tới ngày 30/4/1975, Ngọc Quang theo gia đình đi Mỹ. Nghe nói về sau bạn ấy cũng thành một bác sĩ rồi. Trong đời tôi đã nhiều phen phải tôn người khác làm thần tượng, và Ngọc Quang là một.

Tôi luôn luôn ghét môn Toán (và cả Lý, Hóa nữa). Có lẽ đây chính là thủ phạm gây ra mối ác cảm của tôi đối với bảy năm trung học!  Đã ghét môn nào thì không thể là học sinh giỏi của môn đó được. Mà hễ học dở thì sẽ quay sang nghịch phá. Năm lớp 9 tụi tôi học toán với thày H, phải nói là nên sửa lại câu nói của người xưa thành, "nhất học trò, nhì ba mới tới quỷ ma"!  mới đúng. Tụi tôi nghịch phá tới nỗi thày H  nào la lối, nào xé tập, nào vò đầu bứt tóc, nào nén giận giảng lại bài.. vv và vv,  hoài hủy tới độ phát chán và rốt cuộc thày chỉ còn cách lắc đầu chịu thua. 

Năm lên lớp 11 tôi học Toán với thày V. Thày V viết chữ rất bay bướm, rất đẹp. Chỉ sau một hồi giảng bài bằng phấn trắng của thày, cả một bầy rồng bay phượng múa trên bảng đen đã hiện ra trước mắt chúng tôi!! Chữ Việt nào thày cũng cố biến thành chữ tiếng Anh hết, ví dụ như môn Giải tích thì thày phát âm thành , giải tích khờ!. Hay nguyên tắc khờ., hoặc phân phát thờ.....(Hi hi) Thày V tròn quay và đi rất nhanh nên lũ bạn tôi đặt biệt hiệu cho thày là Hột Mít Lăn. Tuy đã chia ban rồi, (tôi chọn học ban văn, sinh ngữ) nhưng chương trình toán lớp 11 đối với tôi vẫn vô cùng khó nuốt. Có lần tôi phải lên bảng trả bài, không nhớ thày đã phải mớm bao nhiêu lần nhưng đầu óc tôi vẫn không chịu hiểu mô tê gì ráo, khiến thày phải kêu lên, giời ơi sao mà chậm hiểu thế, sao mà dốt thế!... Thế là tôi òa khóc nức nở ngay trước mặt bá quan văn võ (ý tôi là trước mặt cả lớp) khiến thày cuống cuồng như gà mắc đẻ, vội chữa thành, ôi bé Lan học giỏi nhất, bé Lan thông minh nhất, thôi bé Lan đừng khóc nữa nhá, bé Lan được 9 điểm này!  khiến cả lớp phá lên cười ầm ầm. Khi về lại chỗ ngồi, tụi bạn tôi xúm lại nói , Thày xạo quá, nhưng công nhận nước mắt công hiệu thật!

Phân tích (khờ) tới cuối bài rồi mà  tôi vẫn chẳng hiểu sao tôi  không thương trường trung học bằng trường tiểu học hay đại học của tôi. (Đã nói là tôi rất dở môn Tâm lý học mà). Đành kết luận là những năm tháng học trung học rơi vào tuổi mới lớn, mà ai cũng biết rằng cái tuổi người lớn chưa thành người lớn, con nít thì không còn là con nít nữa, nên dở dở ương ương rất khó chịu. Dù sao đi nữa thì tôi cũng muốn mượn những giòng chữ này để tỏ lòng biết ơn  dù muộn màng tới tất cả các thày cô trung học của tôi, kèm theo lời xin lỗi cũng muộn màng không kém, rằng, tụi em chỉ nghịch phá vậy thôi chớ không cố ý làm thày cô buồn lòng, (Nhứt học trò, nhì ba mới tới quỉ ma mà, thưa thày thưa cô), và mong thày cô tha thứ lỗi lầm, tụi em hứa sẽ không bao giờ tái phạm! Hi hi.

Chiều nay bơ vơ bên mái trường
Về đây tìm lại phút mến thương
Trường vắng bóng dáng bao hàng soan mơ màng
Mộng hoa niên chôn trong mái trường xưa...
(Mái trường xưa, Phạm Mạnh Cương)


Trần Thị Phương Lan   
(Bút nhóm Hoa Nắng)   

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2019

Người Anh


Tôi là một thằng nhác học, học dở. Với tôi sự học là một cái gì bắt buộc và gượng gạo. Nhưng tôi vẫn sáng đi trưa về nên cha mẹ tôi không biết điều đó. Tôi đi học nhưng có hôm không vào trường mà rong chơi đâu đó đợi đến giờ trường bãi ra lại nhập vào đoàn học sinh mà về, theo đà đó đời tôi trôi qua hai tháng.

Nhưng đường đời không êm xuôi như thuyền chèo mát mái. Vào một chiều thứ bảy, đang ngồi chơi trước sân thì mẹ tôi kêu vô:

- Hạo! Cả tuần nay mi trốn học phải không?

- Dạ không! Con có đi học mà.

Mẹ tôi vẫn ngồi trên ghế thò tay vào túi lấy ra một tờ giấy nhỏ:

- Còn chối hả? Mi có học mà nhà trường họ gởi giấy về hỏi lý do mi nghỉ học đây hả?

Tôi giật mình, thế ra nhà trường cũng biết tôi nghỉ học nữa sao? Lớp tôi đông thì kiểm soát gì hết, mà mình vẫn nạp tiền đủ thì sợ gì. Hơn nữa trong lớp còn nhiều đứa nghỉ nữa chứ một mình mình sao mà lo, thế nhưng tôi không ngờ sự việc xảy ra trái hẳn.

Tôi cúi mặt làm thinh, mồ hôi rịn ra ở trán.

- Tao thấy mi đi học luôn tưởng mi đến trường học ai ngờ mi đi chơi. Sao rứa Hạo? Mi không nghĩ đến cha mẹ mi sao? Cha mi cả ngày giãi nắng dầm mưa lo kiếm tiền nuôi mi với mấy đứa em ăn học mà mi không biết ư? Mẹ thì công chuyện nhiều quá, mẹ tưởng con lo học để sau nầy khỏe thân. Như vầy thì quá rồi.

Tối đến tôi bị cha tôi dạy một trận nữa cả mềm lẫn cứng. Tôi hứa là sẽ đi học chuyên cần. Nhưng ngựa quen đường cũ, tôi chỉ học được vài ngày, khi lời cha mẹ tôi phai mờ trong tâm não thì tôi lại bỏ học.

Ngồi xuống gốc cây bên đường, để vở một bên tôi lấy bánh ra ăn. Lúc nầy tôi thấy thảnh thơi lạ, không còn hồi hộp sợ kêu lên đọc bài, không bị kêu giật dậy lúc đang úp mặt xuống bàn ngủ nữa. Gió thổi mát mát làm mí mắt tôi nặng dần...

- Hạo! Sao ngồi đây?

Nghe ai kêu tôi giật mình ngước lên. Mẹ tôi tay bưng rổ rau đang nhìn xuống, tôi kinh hoàng đứng dậy.

- Hử, không học sao mà ngồi đây?

- Dạ nghỉ mẹ ạ! Con chơi một lát rồi về.

- Thôi về con.

Lời mẹ tôi êm đềm quá, tôi thấy áy náy khi nói dối lừa bà. Đi một quãng thì trống trường đánh ba tiếng ra chơi. Trước mặt, một toán bạn học cùng lớp với tôi đang tươi cười hăng hái đi tới. Tôi ra dấu cho bọn nó đừng hỏi, nhưng:

- Hạo ơi! Mi bị kêu lên đọc bài, không đi lãnh số không rồi.

Mẹ tôi ngạc nhiên hỏi:

- Thế hôm nay có học hả em?

Hắn thằng học cùng lớp nhanh nhẩu:

- Dạ có học bác ạ.

Mẹ tôi ngó tôi rồi nắm tay tôi dẫn về.

...............

Tôi không được học ở trường nữa, ở nhà giữ em và học do anh tôi kèm. Anh tôi học đệ tứ, anh học khá và siêng năng. Ngoài giờ học ra anh chỉ coi sách và chơi đàn, sáo. Bạn anh cũng là một nhóm người hiền lành học giỏi cả. Tính tình anh như thế nên suốt ba năm học phần thưởng hạnh kiểm đều về phần anh hết. Đối với bạn, anh dễ dãi cười đùa nhưng với lũ em thì anh nghiêm khắc và cứng rắn chỉ trừ đứa nhỏ mới đi chập chững. Lúc trước thấy tôi đi học đều đều đầy đủ (mượn chép lại) nên anh chỉ để ý sơ sơ, nhưng nay rõ ra và được mẹ giao tôi cho anh kèm nên anh dạy rất cứng rắn. Anh bày lại phép cộng trừ (lúc đó tôi học lớp ba) và biên bài tôi học. Mới đầu tôi làm bài không được, học không thuộc anh dạy cặn kẽ nhưng sau lại đánh dữ dội. Tôi hễ làm bài xong là bỏ đi chơi nên khi anh đi học cả buổi thì lại ra hai ba trang viết tập và cả chục bài toán. Tôi phải bù đầu vào làm vì anh về mà chưa xong thì nguy. Anh không cho tôi đi chơi đâu cả, chỉ ra khỏi nhà khi cần đi việc gì.

Thụ giáo với anh được ba tháng sức học tôi tiến bộ thấy rõ. Tôi nhân hai con và chia hai con một cách rành rẽ còn tính đố thì làm bài nào xong bài nấy. Một hôm cầm tờ khai sinh của tôi xem anh lẩm nhẩm rồi xuống nói với mẹ. Bây giờ tôi thích đi học lại vô cùng, với sức học nầy mà vô trường thì chẳng thua ai. Có mấy đứa trong xóm đến chơi anh thường biểu tôi làm toán thi với tụi nó thì lần nào tôi cũng hơn cả, thằng em tôi cũng vậy.

Niên khóa sau tôi được đi học lại như cũ. Lần nầy tôi học với một tâm hồn hăng hái và ganh đua khiến bạn bè nhìn tôi thán phục. Cái uy lực của anh tôi đem ra sử dụng trong mấy tháng kèm tôi nên hễ khi anh nhìn tôi là toàn thân tôi rung động, tôi mến anh và sợ anh. Thời gian sau anh đi học ở xa rất ít về nhà, tôi vẫn đi học chăm chỉ và tiến bộ, vắng anh tôi thấy nhớ và càng nhớ tôi càng học.

Có những đêm thấy tôi cặm cụi học bài mẹ tôi mỉm cười nói với cha tôi:

- Hắn học được là nhờ anh nó.


NHƯ NGUYÊN    

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 188, ra ngày 1-11-1972)


Thứ Ba, 5 tháng 11, 2019

Ngày Mới


 



















 
Ngày mới mọc trên hàng cây cuối phố
Nắng rộn ràng bờ ngói đỏ rêu phong
Con chim non hót giữa nhánh sầu đông
Bài hát ngợi ca ngôi trường và lớp

Trong tay em thơm nồng hương của sách
Cây viết xinh gò nét chữ hiền ngoan
Gió vi vu cành bàng ở cuối sân
Xao xác giọt nắng trong vừa chảy xuống

Con bướm nhỏ trên khóm hoa luống cuống
Hút nhụy hoa ngọt lịm mật thơm ngon
Guốc của ai ngoài hành lang gõ dòn
Trong quen thuộc tiếng dương cầm văng vẳng

Bài học mới cô giáo êm đềm giảng
Cho chim bên khung cửa sổ ngẩn ngơ
Lũ học trò tròn đôi mắt nai tơ
Niềm vui hé xanh như từng ngọn cỏ

Bài Việt sử hôm nay sao vui quá
Em biết ơn công lớn của tiền nhân
Để nhìn trời em chợt thấy bâng khuâng
Em muốn được như Quang Trung Đại Đế.

                                                             VI VU

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 114, ra ngày 12-11-1973)

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2019

Bẫy Cu


Đã hơn một tuần, dân chúng ở quận Tân Uyên xôn xao bàn tán rất nhiều về giải thưởng 100 đồng của quan chủ quận sẽ trao tặng cho bất cứ ai đánh bẩy được đôi chim cu lông trắng. Đối với giá sinh hoạt thời bấy giờ thì số tiền 100 đồng đó quả là 1 gia tài kếch xù cho dân chúng. Vì vậy có người chưa tin hẳn nên đến tận quận đường xem xét thực hư. Quả nhiên họ đã thấy trước tư dinh của viện quận trưởng một tấm bảng bố cáo viết bằng son đỏ chói:

BỐ CÁO

Quan chủ quận sẽ hậu thưởng một trăm đồng (100 đ) cho bất cứ ai đánh bẫy được đôi chim cu lông trắng trong suối Sâu

Ký tên                    
Covin                    

Tân Uyên ngày... tháng... năm 19...

Theo một số người hiểu biết thì cách đây hơn một tuần, viên chủ quận cùng gia đình đi cắm trại ở suối Sâu. Cô Tuyết Vân con gái của quan chủ quận trông thấy một đôi chim màu trắng toát đang âu yếm rỉa lông cho nhau trên một cành cây Mã tiền. Cô bèn chỉ cho cha xem và hỏi chim gì? Viên chủ quận ngần người ra lúc lâu rồi mới buột miệng:

- "C' est la tourterelle"

Ông ngạc nhiên là phải, bởi vì vốn là một người thích săn bắn, cho nên có thể nói ông đã biết gần hết các loài chim chóc, muông thú trong rừng. Riêng về loại chim cu thì ông lại càng biết rõ hơn loại nào hết vì ông gặp rất thường mà săn được cũng nhiều. Giống cu đất có đôi cánh màu hơi nâu đen với thân hình mảnh mai nhỏ bé, giống cu ngói có đôi cánh trắng hơn điểm nhiều hoa với thân hình xinh x8án gọn gàng nhất là một vòng cườm chung quanh cổ giống như một vòng hoa, loại này thường gáy rất hay. Đến giống cu xanh có bộ lông tựa như lông két thịt ăn rất mềm và giống cu gầm ghì to con, thịt nhiều mà ông đã từng nếm bao nhiêu lần rồi. Còn loại khác thì chưa bao giờ ông nghe nói tới. Thế mà hôm nay đột nhiên ông được thấy tận mắt một đôi chim lạ này. Mình mẩy nó trắng toát không một chấm đen, thân hình xinh xắn trông y hệt loại chim cu ngói.

Ông lấy vội cây súng săn hai nòng ra định nhắm bắn, nhưng chợt nghĩ lại như vậy thì đôi chim không chết cũng bị thương, như vậy uổng quá, nên bắt sống chúng thì hơn. Do đó ông rón rén đi lại gần hơn để quan sát cho được thỏa mắt, nhưng đôi chim hiếm có kia đã nhút nhát bay về phía đầu suối.

Món tiền thưởng kếch sù của quan chủ quận đã lôi cuốn các tay bẫy cu không ít. Họ đến suối Sâu hàng hai ba ngày để rình mò, chờ đợi và tìm kiếm. Tiếng chim mồi của họ gáy vang cả khu suối nhưng dường như đôi chim kia còn mải âu yếm bên nhau nên chẳng hề chú ý tới. Non một tháng trời trôi qua, lòng kiên nhẫn của những kẻ bẫy cu đã nao núng không ít và dần dần không ai còn nghĩ đến món tiền hấp dẫn kia nữa. Họ bình thản trở lại nếp sống của ngày xưa cũ và coi như chuyện đôi chim trắng kia là một huyền thoại.

Tuy nhiên hãy còn người cuối cùng. Đó là Bảy Sâm. Bảy Sâm trạc ngoài 30 tuổi mà đã sống với rừng xanh hầu như trọn vẹn với số tuổi mình có. Vốn tính chất phác nhưng lại không dễ tin như các bạn mình, Bảy Sâm cho rằng nếu quan chủ quận không nhìn nhầm thì chắc chắn bên trong câu chuyện nầy hãy còn có một điều bí ẩn gì đây mà anh ta không thể đoán ra. Tài nghệ bẫy cu của Bảy Sâm được liệt vào hạng khá nhưng anh ta không như các bạn vội vã mang đồ nghề ra thi thố. Bảy Sâm chú ý tới câu chuyện đôi chim cu lông trắng không vì số tiền thưởng của quan chủ quận mà vì muốn thỏa mãn sự tò mò của mình nhiều hơn. Thực vậy, trong lúc các bạn của Bảy Sâm đã chán nản thì Bảy Sâm trong khi làm việc trong rừng cũng như những lúc rỗi rảnh, đều chú ý và theo dõi những tiếng cu gáy "Cúc cu cu... cu" từ trong rừng xa vọng lại.

Có thấy Bảy Sâm kiên nhẫn rẽ lối đi nhanh về hướng có tiếng chim cu gáy giữa rừng cây gai góc không một lối đi, chúng ta mới ngạc nhiên không hiểu động cơ nào đã thúc đẩy Bảy Sâm mãnh liệt đến thế!

Nỗi băn khoăn của Bảy Sâm kéo dài mãi cho đến một buổi chiều đi thăm rẫy ở gần rừng cấm về. Bảy Sâm đang rửa tay bên suối Lạnh thì chợt nhìn thấy đôi chim cu lông trắng mới vừa bay về đỗ xuống ngọn cây xanh. Một cảm giác mạnh chạy từ xương sống xuống khiến Bảy Sâm sững sờ, đứng bất động, nhìn chăm chú vào đôi chim. Đôi chim cu lông trắng vẫn vô tình âu yếm rỉa lông cho nhau và tìm chỗ ngủ.

Bóng tối đã bao phủ cả cánh rừng, Bảy Sâm mới chịu lặng lẽ ra về. Anh ta lẩm bẩm:

- "Lạ thật! Trên đời nầy lại có chim cu lông trắng thực sao?!!"

Bảy Sâm lại thầm nghĩ:

- "Nó ngủ ở suối Lạnh nầy mà mấy ông thợ rừng cứ đặt bẫy ở suối Sâu cách đây hơn 8 cây số thì bảo sao chẳng thấy tăm dạng chúng đâu cả."

Trưa hôm sau, Bảy Sâm trở lại chỗ cũ với đầy đủ đồ nghề. Bảy Sâm đã khôn khéo đặt chiếc bẫy ở trên một nhánh cây "bằng lăng" cách cây xanh khoảng ba chục thước rồi nằm phục trong một bụi cây bên bờ suối để chờ đợi từ lúc nắng mới nhạt màu.

Gió rừng chuyển động, hoàng hôn chợt xuống đúng lúc đôi chim trắng bay về, chúng nhận ngay ra có một cái gì khác lạ sau khi nghe một loạt tiếng gáy vang của con chim mồi. Con chim trống tuy chưa hiểu đối phương ý muốn gì nhưng cũng gật gù gáy trả lời lại từng chập một. Rồi chừng như cho rằng dù tiếng gáy kia có là những lời tha thiết gọi bạn, hay những lời ong bướm để quyến rũ vợ người, mà cũng có thể là những lời thách thức khiêu khích cùng mình so tài vũ dũng, con chim trống quyết ý phải đánh đuổi "rắc rối viên" nầy đi nơi khác mới được. Nó vụt bay qua cây bằng lăng để đến gần đối phương hơn hầu dọ dẫm và quan sát được kỹ tình hình.

Đối phương của nó vẫn gáy lên vang lừng lại còn có phần kéo dài dư âm phía sau ra chừng đắc chí lắm. Con chim trống cũng không chịu kém. Thế rồi tiếng gáy đối đáp nhau càng lúc càng thu nhặt lại...

Giây phút thách thức diễn ra khá lâu cho đến lúc máu nóng bừng cả mặt, con chim trống đã bay thẳng lại chiếc lồng của con chim mồi để quyết sống mái.

Bảy Sâm chỉ chờ có thế! Một cái giật mạnh đánh "phập" kèm theo một tiếng thở phào nhẹ nhõm đầy khoan khoái. Con chim trống vùng vẫy vô ích trong cái bẫy chật hẹp trong khi con chim mái kinh hoàng vỗ cánh bay vút đi xa...

Bảy Sâm dọn đồ nghề xong, chỉ kịp ngắm bộ lông trắng toát của con chim quý trong giây lát thì trời đã sụp tối. Chính đêm nay Bảy Sâm mới trằn trọc hơn bao giờ, Bảy Sâm nghe rõ từng tiếng đập cánh mong tìm lối thoát của con chim quý trong chiếc lồng mới lạ. Anh nghĩ đến cái đêm, cách đây hơn hai chục năm, trước ngày anh cưới vợ. Đêm năm xưa ấy anh trằn trọc ghê gớm nhưng rồi cũng thiếp đi được đôi chút khi trời gần sáng, còn đêm nay thì hoàn toàn không. Anh nghe rõ tiếng vạc ăn đêm, tiếng dế kêu sương và cuối cùng tiếng gà rừng gáy báo sáng. Anh hiểu lờ mờ rằng sở dĩ trong đời anh có hai lần trằn trọc mà lần sau lại mãnh liệt hơn lần trước là vì sau đêm năm xưa sẽ có "MỘT NGƯỜI" biết đến tên anh mà sau đêm hôm nay sẽ có đến hàng trăm hàng ngàn người biết đến tên anh.

Hai hôm nay rồi Bảy Sâm băn khoăn vô cùng vì nhiều nỗi: Con chim mái vì hoảng sợ nên bay đi đâu mất không thấy về chỗ cây xanh cũ ; con chim mái không gáy và không đá nhau nên không thể đánh bẫy bằng chim mồi được. Bảy Sâm đã dùng đến lưới rập có cọng kèo dù đặt sẵn trên ngọn cây với chiếc lồng có con chim trống bên cạnh. Kết quả của lối bẫy này thật là mong manh. Và mối băn khoăn lớn nhất của Bảy Sâm là đã hai ngày nay rồi, lúa và đậu xanh trong lồng con chim cu lông trắng vẫn còn nguyên vẹn. Nó bỏ ăn, hết đập cánh tìm lối thoát lại buồn bã nhìn vọng về chân trời xa. Lông cánh nó rụng nhiều khiến Bảy Sâm phải đem nó ra khỏi lồng, thổi nhẹ để xem thì thấy đôi cánh nó đã bầm xanh nhiều chỗ.

Nhưng rồi như định mệnh xui khiến...

Chiều nay con chim mái chừng như đã dịu bớt cơn kinh hoảng đã tìm về chỗ cũ, nó nhìn thấy bạn nó kiệt sức, héo mòn, nên vội bay đến gần như để hỏi han, an ủi chứ có ngờ đâu Bảy Sâm đã giật mạnh mối dây cho chiếc lưới rập úp chụp xuống, một cọng kèo dù bật lên đã không may đánh trúng vào cổ nó khiến nó giãy lên đành đạch rồi lịm dần trong chiếc lưới ác nghiệt. Bên cạnh nó trong chiếc lồng phũ phàng con chim trống cũng vừa gắng gượng nhìn bạn lần cuối rồi rũ cánh nằm bất động.

Bảy Sâm lặng người giây lát rồi buồn rầu cất bước đi.


Thế Hà    

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 78, ra ngày 1-10-1967)

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2019

Áo Rách













Chiều mưa qua bước chân nghèo lao động
Bà Tư ơi! Hàng ế có nhiều không?
Mâm cơm đói khô gầy thân con cái
Và lo âu cho bóng tối vô chừng

Thương tiếng rao hàng đầu hôm khan tiếng
Đưa đẩy thời gian đôi gánh chợ chiều
Áo rách cho đời con khôn lớn
Nuôi hồn thơ chưa lấm vết bùn nhơ

Gói kỹ đồng tiền từ trong gian khổ
Như những bàn tay xòe sáng ăn quà
Có đủ đồng xôi no lòng em bé
Thật nghèo bất hạnh với người ta

Rồi có qua trường trên phố lớn
Xe nhà đưa rước trẻ bằng em
Trường cao lầu ngó căn nhà lá
Đói chữ cho dù đã đói cơm

Xóm nhỏ nhìn nhau giữa ruột rà
Hát trên mặt đất vạn bài ca
Ngày mai trời sáng con chim hót
Dưới mái nhà tranh đã nở hoa.

                                   NHƯ UYÊN THỦY
                                (văn đoàn học sinh Sàigòn)

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 188, ra ngày 1-11-1972)

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2019

Nguyệt Thu












Sáng mai mây trắng trời hiu quạnh
Ta tiễn tình ai với ngậm ngùi
Sầu phai cánh lá vàng trên cỏ
Là hết ngày cùng bên lối vui

Sáng mai nắng ngủ trên cành úa
Chim nhỏ bên thềm không líu lo
Thu nghe từ chút đau vời vợi
Những tiếng ca quen thuở hẹn hò

Khuất lối ai mờ hoa trắng rụng
Ta đứng giữa trời mưa bụi bay
Mù sương cỏ biếc ngày tao ngộ
Cũng đã phôi pha những dấu giầy

Khép áo hoa về trên lối cũ
Bâng khuâng sầu rụng mấy cung đàn
Lòng như chút khói Tiêu Tương nhớ
Đã có đâu ngờ như bóng sương

Đưa tiễn tình ai nghìn dặm ngắn
Trăm năm dẫu bận giấc hồ xưa
Chút lòng đau đã quen từ buổi
Cùng nhặt thu rơi dưới Nguyệt mờ

                                             THỤY ĐỖ

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 212, ra ngày 1-11-1973)

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2019

Đừng Nhìn Sự Việc Chỉ Một Khía Cạnh


Các em thân mến,

Ngày xưa, có năm anh thầy bói mù chưa từng nhìn thấy con voi bao giờ.

Một hôm, được biết có người nài cỡi con voi đi ngang qua nơi các thầy bói hành nghề, năm anh mù này nhờ người dẫn đến chỗ con voi và năn nỉ anh nài cho rờ vào con voi để biết nó như thế nào. Anh nài này có tánh tinh nghịch, hay đùa giỡn, để người này rờ cái vòi, người kia cái ngà, người thứ ba lỗ tai, người thứ tư cái chân và người thứ năm cái đuôi.

Người mù rờ cái vòi nói ngay:

- Tưởng gì lạ, con voi chỉ là một con đỉa to.

Người thứ hai phản đối:

- Chắc chắn là không phải rồi. Nó giống như cái ống điếu khổng lồ.

Người thứ ba la to:

- Đâu phải vậy, tôi tin chắc con voi giống như cái quạt.

Anh mù sờ chân voi cho rằng:

- Theo ý tôi, nó giống như cây cột nhà.

Người cuối cùng, bình tĩnh đáp:

- Các anh đều lầm lẫn cả. Tôi đã sờ kỹ hình dáng nó rồi. Con voi là một cây chổi cùn.

Năm anh mù cãi nhau, không ai nhịn ai đến nỗi phải đánh nhau. Bị bắt đưa vào quan, họ trình bày quan điểm của họ.

Ông quan tức cười về việc nhận xét hồ đồ của các anh thầy bói, bèn ra lịnh cho người dẫn con voi đến và để cho mỗi người mù sờ con voi từ đầu đến đuôi rồi cho đuổi tất cả ra ngoài dinh.

Bấy giờ năm anh thầy bói biết mình lầm lẫn to nên rất hổ thẹn, vừa đi vừa lẩm bẩm: Thật ra, mỗi đứa chúng mình đều mù quáng cả.

Các em thân mến,

Có nhiều lúc, chúng ta đã hành động giống như năm anh chàng thầy bói mù này. Trước một sự việc, chúng ta đã hấp tấp phán đoán theo một khía cạnh chúng ta đã nhìn thấy, theo một quan điểm mà chúng ta đã có thành kiến sẵn trong người chúng ta, nên chúng ta thường cho cái nhìn, hay lý lẽ của chúng ta là đúng.

Ông Ch. Rozan cho rằng: "Con chồn thường nghĩ rằng mọi người đều ăn gà như nó", giống như lời của Méandre: Kẻ nham hiểm tưởng rằng người lương thiện là kẻ hung ác.

Carmontelle còn khuyên chúng ta: Nên dè dặt, không nên luôn luôn tin tưởng ở những điều mình trông thấy.

Vì vậy, các em nên nhận xét kỹ càng toàn diện vấn đề trước khi hành động hay phán xét một việc gì. Các em chớ nên vội cho rằng chỉ có ý nghĩ của các em, tôn giáo của các em, học thuyết hay chủ nghĩa mà các em đang tôn sùng là đúng với chân lý.

Ông La Fontaine nhắn nhủ chúng ta: Bất cứ việc gì cũng phải suy xét nó kết cục ra sao.

Ca dao chúng ta há chẳng dạy:

- Người đời phải xét thiệt hơn,
Đừng nghe tiếng sáo tiếng đờn mà sai.

Thân mến chào các em     
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 110, ra ngày 7-10-1973) 

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>