Thứ Ba, 6 tháng 6, 2023

Bản Án Của Allah

Câu chuyện rùng rợn xảy ra tại một bộ lạc Ả-Rập, tình thương yêu không được cha mẹ chấp thuận sẽ bị trừng phạt. Và người Hồi đã để Allah, Thượng đế của họ xét xử việc này, bằng hình phạt ném đá.

Vị linh mục được chứng kiến cách xét xử này, quá xúc động và không biết cứu vớt tội nhân bằng cách nào, chỉ còn biết cầu kinh.

Chuyện thật sống động, hồi hộp, khủng khiếp, hấp dẫn từ đầu đến cuối, cũng do thế truyện ngắn này của Garnett Radcliffe được xếp vào hàng những truyện ngắn hay nhất thế giới trong các năm 1952 - 1953.

Với tuổi 16, Zuleika có vẻ đẹp như một vị thiên thần, nhưng lại nghịch tôn giáo. Cứ như vậy, cha Tomlinson gặp nàng lần đầu tiên. Ông trông thấy nàng trong một nhóm thiếu niên Ả-Rập đang khiêu vũ ngoài trời ở trung tâm Dikkhan, nơi mà lạc đà được cột vào một trụ chôn xuống đất. Ông hỏi viên thông ngôn xem chuyện gì.

Viên thông ngôn của ông, một người Ba-tư tên là Sadu Din, thường khoe khoang biết tên tất cả những lạc đà sống giữa hai khu Aden và biển Oman đáp:

- Thưa Sahip (1), thiếu nữ đó không đáng kể, nàng là con gái một người tên là Omar Haithan Audhali. Người ta nói rằng nàng đã bí mật đính hôn với Ali Baksh Audhali, tên quỷ đứng về phía tay mặt nàng.

*

Cha Tomlinson hết sức mừng rỡ. Ông mới tới miền nam xứ Ả-rập ; ông là nhân viên một hội truyền giáo, và bây giờ là cuộc hành trình đầu tiên của ông theo dọc bờ biển, đến vịng Oman, sau khi vượt qua Rhijan và Sallalad, ông sẽ tới Dikkan, trên lằn ranh giới mập mờ, ngăn địa phận Makhullah với tiểu quốc Hadramaout. Cuộc hành trình dẫn tới xứ mà ông coi như là địa phận của mình hay là đất truyền giáo của ông làm ông vui mừng. Dân chúng xem ra mặn mà, đáng khen, không giống những người Ả-rập, theo trí tưởng tượng của người Tây phương. Họ xinh đẹp, nhất là thanh niên.
 
Ông bảo Sadu Din:
 
- Người ta tưởng như trông thấy một con hoẵng khiêu vũ với một con linh dương. Nhưng, nếu tôi không lầm, dân chúng ở Dikkan chính thuộc về bộ lạc Audhalis có phải không?

- Vâng, thưa Sahib, chính họ là những người Audhalis, những người ném đá. Cuộc khiêu vũ mà ngài trông thấy ở kia, đó là bộ tuồng của một bản án ném đá. Viên đá lớn mà họ nhẩy vòng quanh tiêu biểu cái đầu của kẻ gian bị chôn xuống đất, ngập đến cổ.

Cha Tomlinson nhăn mặt lại. Người ta vừa nhắc với ông ở xứ kỳ dị này, sự tàn bạo đi đôi với vẻ đẹp. Một vị bề trên của người, ở tổng hành dinh hội truyền giáo, tại Aden, đã nói chuyện với ông về cách xử án bằng cách ném đá, một lối xử tội cổ xưa còn tồn tại ở một vài bộ lạc ngoài sa mạc.

Ông kêu lên:

- Thật hãi hùng! Vô tội hay có tội, kẻ có tội bị chôn xuống đất cũng đã bị kết án. Đó là một sự cố sát, chớ không phải là một lối xử án. Tôi nghe thấy họ kể rằng có những người Ả-rập tập luyện ném đá cho đến khi họ có thể ném gẫy cánh một con chim đang bay hoặc chân một con ngựa đang phi nước đại.

- Vâng, họ tập luyện tới mức đó, cũng nhờ Allah Thượng đế - Sadu Din long trọng nói - Kẻ nào hướng dẫn lạc đà tới giòng nước cũng có thể hướng viên đá tới đích. Thưa Sahib, nếu ngài vô tội, chắc ngài cũng muốn để Thượng đế xét xử, hơn là phó mặc cho sự khôn ngoan của loài người phải không?

*

Cha Tomlinson ngập ngừng không biết trả lời người hỏi mình ra sao. Một trò vui khác làm ông hết bối rối.

Với tất cả tài khéo léo của một thiếu nữ ném đá, Zuleika vừa ném một cục phân lạc đà vào Ali Baksh. Thiếu niên cười đuổi nàng, trông giống như một con công săn một con chim rẽ. Zuleika luồn giữa những người nhẩy xếp thành hai vòng tròn, đầu gối rung động, vỗ tay và kêu: "Hulah! Hulah!" giọng the thé.

Thiếu niên sắp bắt được nàng, nàng giả bộ sợ hãi kêu lên, uốn éo thoát ra khỏi tay chàng và đâm thẳng về phía cha Tomlinson. Sự cuồng nhiệt của trò chơi làm tiêu tan nỗi sợ hãi của ông do người lạ gây nên. Cười như điên dại, hai người thanh niên nam nữ Ả-rập quay lộn xung quanh vị giáo sĩ như một cột trụ.
 

Đối với cha Tomlinson, đó là những giây phút kỳ diệu. Cảnh trí đối với ông hình như có một ý nghĩa, mặc dầu ông không hiểu rõ ý nghĩa của biểu tượng. Nhưng ông hứa hẹn sẽ che chở và thương mến những thanh thiếu niên kia của sa mạc, vốn tính tình tươi vui, và truyền dạy cho họ cái công lý chân chính, cùng ý nghĩa của lòng từ bi bác ái...

*

Một năm sau, sự ngẫu nhiên và những đổi thay của một vị giám mục, vốn ưa thích xê dịch các hàng giáo sĩ trẻ tuổi của mình, lại đưa cha Tomlinson trên con đường duyên hải dẫn tới tiểu quốc Oman.

Lần này, ông du hành với một người Anh. Nhưng người bạn đồng hành này, ông không lựa chọn. Chàng có ít điểm tương đồng, quả vậy, với thiếu tá Grant đi mộ những quân lính đánh thuê ở miền nam Ả-rập cho quân đội Hoàng gia Anh. Người gầy và trầm lặng, cặp mắt chán nản ngang với sa mạc, Grant nói ít, nhưng uống rượu "uých-ky" thật nhiều và chàng lại nổi danh là người "chuyên sai khiến người Ả-rập.

Để lại phía sau, chiếc xe có đầy tớ và hành lý, họ đi bộ tới đây. Đến công trường làng, cha Tomlinson lại nhớ tới cuộc viếng thăm trước.

- Lần trước, tới Dikkan, tôi trông thấy những thanh niên thiếu nữ Ả-rập nhẩy múa ở nơi cột lạc đà. Tôi có cảm tưởng như dự một cuộc khiêu vũ. Tôi nhớ nhất một đôi trai gái : thiếu nữ, nhỏ và nâu, vẻ một vị thần gió tươi vu, và thanh niên, thẳng thắn, mềm mại, như một lưỡi dao. Nhưng khi người thông ngôn nói cho biết ý nghĩa cuộc khiêu vũ thì hình như có một con rắn lướt vào lạc viên Eden.
 
- Tất cả những cuộc khiêu vũ của họ đều có ý nghĩa biểu tượng - viên thiếu tá mỉm cười nói - Đó là lúc vị hôn phu đến.
 
- Không phải, đó là một cuộc khiêu vũ "xử hình bằng đá". Một viên đá lớn đặt ở dưới đất thay thế đầu kẻ tử tội, người ta phải ném đá cho đến chết.
 
- Và sau thế nào nữa? Đối với người Audhalis hình ném đá phạm nhân là một tục lệ cổ xưa lắm.
 
Cha Tomlinson sôi nổi tức giận kêu lên:
 
- Có cần gì tục lệ đó phải cổ xưa hay mới đây! Tôi coi hình phạt là một cách xử án tối dã man, gớm ghiếc nhất, tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tại sao chính quyền Anh lại không ngăn cấm những sự khủng khiếp này?
 
 Thiếu tá Grant đáp:

- Bởi vì xứ này, "những tục lệ đó có một mãnh lức ghê gớm, gần như Hoàng đế Trung Hoa". Vả nữa, hình phạt này hiến cho kẻ nào phải chịu đựng cái may mắn được sống sót, miễn là y có cái sọ cứng rắn. Họ chỉ ném y với một số ít đá thôi. Nếu y không chết, người Audhalis cho là Allah xét y vô tội và sẽ thả ý. Nếu ta nghĩ kỹ, sẽ thấy họ một phần có lý.
 
- Như vậy, người ta sẽ tưởng là ông tán thành cái tục lệ khủng khiếp này?
 
- Quả vậy, con thấy nó thiết thực. Ở Hadramaout, gỗ quá hiếm đâu dám phung phí dựng những giảo đầu đài, và đạn dược lại quý hơn vàng bạc. Riêng chỉ có đá sỏi thật nhiều. Người ta dùng nó để giết những tử tội. Cha muốn họ làm thế nào? Cha muốn họ bóp cổ những phạm nhân chăng?
 
- Tôi chống đối tử hình dưới bất cứ hình thức nào.

- Và người Ả-rập ở sa mạc lại tin tưởng rằng ngục thất lại tàn bạo hơn bất cứ một cái chết nào. Quot homines, tot sententiae (2) chắc cha đã rõ. Cha chống đối tử hình và con thì chống lại sự can thiệp vào đời sống các bộ lạc.

*

Cha Tomlinson nghĩ rằng người bạn đồng hành mình có cái tâm trạng của một viên chức, e ngại không muốn làm trái ý bộ lạc Audhalis, vì những bộ lạc này cung cấp nhiều tân binh tốt cho quân đội Hoàng gia. Thường tình, các nhà chức trách thuộc địa theo con dường nào đỡ phải chống chọi ít nhất, và cho rằng việc tiện nghi quan trọng hơn là điều công bằng.

Buổi tối đến, cha Tomlinson đi du ngoạn một mình ở Dikkan. Ông ước mong được gặp Zuleika và Ali Baksh khiêu vũ với bạn bè của chúng. Nhưng ông thất vọng. Một sự im lặng khác thường bao trùm công trường. Những người ông gặp, xem như quá bận rộn, nên không lưu ý đến người ngoại quốc.

Ở nơi buôn lạc đà, đám đông đang nhìn một vài người đang đào mấy cái hố trên nền đất rắn và nâu. Cha Tomlinson tưởng họ đào huyệt. Ông biết người Audhalis chôn đứng người chết của họ, mặt quay về La Mecque (3).

Ông không dám hỏi. Đối với người Ả-rập, tính hiếu kỳ là điều thiếu lịch sự đáng chê nhất.

Nơi này chọn để đào huyệt chôn người, thật cũng kỳ quá! Tại sao người ta không chôn hai xác chết ấy ở nghĩa địa làng, ở đàng sau ngôi đền?

Những tia nắng cuối cùng nhuộm bãi sa mạc một màu hồng, phủ sa cừ. Khi những tia nắng này tắt hẳn, một người Ả-rập dẫn hai con lạc đà đến. Đen đủi và ảm đạm không khác gì đêm tối, y tiến thẳng đến hai huyệt, ngừng ở giữa bãi cột lạc đà, bắt hai con vật quỳ xuống. Người ta gỡ những túi nặng trên lưng lạc đà xuống và đổ ra đất, tạo một tiếng đục và lăn theo nhau, tưởng những túi này đựng than.

Than sao được! Cái đống nhỏ hình tháp này ở mấy túi kia đổ ra lóng lánh trắng. Một người cúi xuống, cầm một vật gì, y ném thật mạnh về phía các huyệt. Những người dự xem bật cười.

Lúc này cha Tpmlinson hiểu : người Audhalis sửa soạn hình án bằng cách ném đá. Xúc động đến gần nôn mửa, ông tránh xa cái cảnh tượng rùng rợn này để về lều. Ông cùng ở với thiếu tá Grant.

Ngồi ở thành giường, một ly "uých-ky" ở tay, Grant vừa hút ống điếu vừa trò chuyện với viên tù trưởng ở Dikkan: Abdul Khan Audhali, một người Ả-rập thấp và râu ria xồm xoàm, cặp mắt sắc sảo, đượm vẻ tinh ranh, mặc một chiếc áo ka-ki, quấn phía dưới một tấm vải nội hóa màu rực rỡ. Con dao găm vòng cong, cán chạm trổ chòi ở cái bao da đỏ nạm bạc ra chỉ rõ địa vị của y.

Cha Tomlinson đã nói chuyện với y trong cuộc viếng thăm Dikkan lần trước và cha không thấy có thiện cảm với y mấy. Ông thấy y tự phụ, quá kiêu hãnh về tính cách Anh hóa của y. Ông cũng chê y lam dụng thuốc lá Anh. Khi ông vào lều, viên tù trưởng đang hút thứ thuốc lá ấy và cầm ở tay một chiếc ly đựng một thứ gì, chắc mạnh hơn nước trà.

Abdul Khan đứng dậy, nghiêng người và nhường ghế mình với tất cả sự lễ phép của người Ả-rập ở bãi sa mạc.

Cha Tomlinson không lưu ý tới sự mời mọc này và quay ra nói với viên thiếu tá Grant. Ngọn đèn bão trong lều soi rõ mặt cha, tái mét và băn khoăn.

Người ta sửa soạn một bản hình án ném đá. Ông cần phải ngăn cấm việc này.

*

Im lặng. Abdul Khan mất vẻ vui tươi và khuôn mặt y tựa một cái mặt nạ, khó hiểu. Cũng thản nhiên, Grant trả lời:

- Con không thể làm gì được, bạn con, ông tù trưởng ở Dikkan đã nói rõ ràng cả công việc. Tất cả chỉ định rằng cần phải để Thượng đế xét xử.

Cha Tomlinson kêu lên:

- Các người thật phạm thượng! Các người có thể nghĩ rằng một bản án tử hình kéo dài và tàn bạo như vậy là biểu lộ ý muốn của Thượng đế được sao?

Grant chống đỡ cái nhìn khinh miệt của vị linh mục với vẻ thản nhiên như bãi sa mạc. Chính người Ả-rập nói một giọng hòa hoãn:

- Xin Sahib nghe tôi... Hai tội nhân đã vi phạm một trong những luật lệ thiêng liêng nhất của bộ lạc Audhalis. Thiếu nữ đã được bố nàng hứa hôn cho một người lái buôn Hassani ở Muscat, một người buôn ngọc rất giàu. Nhưng nàng đã tỏ ra không tốt. Nàng không muốn nghe lời giáo huấn của bố. Ông bố liền nhốt nàng trong nhà. Nàng khóc lóc nhiều ngày và bỏ không ăn uống. Người tình của nàng, một thanh niên trong bộ lạc chúng tôi, đã bắt cóc và đi trốn với nàng như một tên trộm cắp. Chúng tôi dùng những lạc đà chạy mau đuổi họ và tìm thấy họ trong một động, nơi họ ẩn trốn. Hai người chống cự như những con báo, thiếu nữ cũng dữ tợn như gã thanh niên. Chúng đã đâm hai người trong bọn chúng tôi, trước khi chúng tôi bắt được chúng. Đó là một tội nặng và chết là xứng đáng lắm.

Vị linh mục thở hổn hển và cám thấy một mối lo âu khủng khiếp, mỗi lúc mỗi tăng trong đầu óc ông:

- Tên hai tội nhân là gì?

- Zuleika, con gái Omar Haithan và Ali Baksh, gã chăn chiên. Tại sao Sahib lại hỏi tôi như vậy?

- Tôi biết họ... hay ít nhất tôi cũng đã gặp họ lần trước, khi tôi qua đây. Họ chỉ là trẻ con! Và họ có làm gì? Ở Anh quốc...

Thiếu tá Grant ngắt lời ông, giọng sẵng:

- Chúng ta không phải ở Anh. Xin cha hãy nghe con: không nên xen kẽ vào công việc này. Nếu ngài cố can thiệp, người Hassnis và Audhalis sẽ chém giết nhau từ biển Oman đến Yemen.

Vị linh mục rên rỉ. Ông nghĩ: "Tính thận trọng của một viên chức! Anh Grant này làm tất cả mọi thứ để tránh những sự phiền muộn. Gã quan niệm những sự giao thiệp với dân bản xứ theo kiểu cách một thực dân Anh: gã khinh bỉ họ". Nhưng, không có Grant tiếp tay, vị linh mục không thể xử sự gì được. Tuy vậy, với tư cách là người và nhà truyền giáo, ông quyết định làm tròn nhiệm vụ của mình. Ông quay lại phía Abdul Khan:

- Tôi cần phải gặp những đứa trẻ đó, trước khi chúng chết. Tôi sẽ cầu xin cho chúng với đức Thượng đế tôi tôn sùng.

Trong một lúc, người Ả-rập ngập ngừng, sau y nghiêng đầu và nói:

- Ngay những lời cầu xin của một người không tín ngưỡng cũng là quý, nếu nó từ đáy lòng phát ra. Sahib, xin người theo tôi.

Rời lều, họ ra cảnh huy hoàng của đêm tối ở Hadramaout, với bầu trời đầy sao như nạm ngọc. Về phía Dikkan, không một tiếng động nhỏ, tưởng như cả những con chim đêm, cào cào châu chấu đều im lặng khi tử thần sắp đến.

Hai người đàn ông vác súng canh gác tội nhân trong một túp lều. Tiếng rơm rạ sột soạt và tiếng xích loảng xoảng khi người ta mở cửa. Một người gác cầm chiếc đèn bão và linh mục Tomlinson trông thấy Zuleika nằm trong cánh tay của tình nhân, mặt úp vào ngực chàng. Máu khô đọng đen kịt ở chân nàng bị rách xước. Ali Baksh thức. Cặp mắt đen và to của chàng chòng chọc nhìn vị linh mục. Nó buồn thảm và thất vọng, như cặp mắt một con hoẵng bị sa bẫy.

Vị linh mục định nói, nhưng cổ ông bị nghẹn ngào, tưởng như sắp nổ vỡ. Không thể chống được cái nhìn của Ali, ông khuỵu quỳ xuống gần những tội nhân, thấy một chậu nước trên nệm rơm, ông đổ một ít nước vào chiếc khăn tay, rồi ấp nhẹ vào chân Zuleika.

Đôi chân nhỏ, màu nâu đã chạy và nhẩy vui vẻ biết bao! Trong chốc lát nữa, chỉ trong một vài giờ ngắn ngủi, người ta sẽ chôn cặp chân nhỏ bé ấy còn sống nguyên xuống huyệt. Người ta sẽ chôn Zuleika đến tận cổ, riêng chỉ còn cái đầu bù xù nổi lên. Một đứa bé ưa thích kẹo mạch nha, khiêu vũ và mặt trời, người ta sẽ ném đá như ném giết một con chó dại! Những người kia, mỗi người lần lượt nhau, sẽ cầm một viên đá, nhắm và ném.

Một bàn tay sờ vào cánh tay vị linh mục và ông nghe thấy thiếu tá Grant thì thầm, giọng khẩn cấp.

- Ý cha cả sáng - vị linh mục thì thầm và làm dấu chữ thập. Lúc chuệnh choạng đi ra cửa, ông cảm thấy Ali vẫn nhìn theo ông, giống như mắt một con chó bị bỏ rơi.

Bắt đầu lại cảnh đêm tối và cảnh sán lạn của các vì sao. Không khí như thơm ngát hơn, khi người ta vừa ở một túp lều hôi hám ra. Rồi ông thấy mình trơ trọi ở dưới túp lều, không hiểu việc gì đã xẩy ra. Grant đứng phía sau nói chuyện với viên tù trưởng và những vị bô lão khác trong làng. Linh mục Tomlinson cảm ơn trời đã để cho ông ở lại một mình và run lẩy bẩy quỳ xuống gần giường của ông để cầu kinh: "Ý cha cả sáng" nhưng những tiếng nói như trống rỗng, vô nghĩa, và không an ủi ông chút nào. Những ảo tưởng hãi hùng ám ảnh ông luôn. Ông cố xua đuổi đi, nhưng nó cứ cố bám lại. Đầu hai người ngang mặt cát, giống những chiếc sọ dừa... Và những đầu đó bật lên như những sọ dừa bị đá đập mạnh vào... Một lúc sau có máu chẩy, răng gẫy... Nhưng hai người vẫn mỉm cười với nhau, cho đến khi những viên đá rít lên khép mắt họ lại mãi mãi, cặp mắt tươi vui biết bao khi hai người cùng nhau khiêu vũ...

*

Cầu kinh thấy không giúp được gì, cũng không thể chịu đưng được những ý tưởng đó, linh mục trông thấy chai rượu "uých-ky" Grant để trên bàn. Ông rót một ly và uống. Ngay lúc này, lều sáng rực: mặt trời đã mọc.

Cha Tomlinson lắng tai: phải, làng mạc đã dậy và họ nói ở bên ngoài. Đám đông tụ tập ở nơi buộc lạc đà. Vị linh mục biết rằng hình án ném đá bao giờ cũng diễn ra vào lúc mặt trời mọc.

Ông uống rượu "uých-ky" nữa, như vậy sẽ cởi mở một sự gì trong đầu óc ông và sau cùng ông cầu khẩn được. "Ôi Thượng đế xin hãy ban cho họ một sự kỳ diệu gì để cứu vớt được họ... Xin Thượng đế, Người hãy tỏ rõ lòng từ bi bác ái của Người... Hỡi Thượng đế thân yêu, ý Người cả sáng."
 

Thời gian như ngừng trôi chẩy. Cha Tomlinson tiếp tục cầu kinh. Những tiếng la hét làm ông giật mình. Ông đi ra phía cửa lều và nhìn về nơi cột lạc đà. Ở đấy, ông trông thấy một đám đông xếp hàng như những khách đi xem một cuộc đánh cầu. Cánh tay một người Ả-rập cao lớn giơ lên đầu những người khác với một cử động thật mau lẹ. Những tiếng kêu man rợ nổi lên... Hình án ném đá bắt đầu...

Thượng đế không chấp nhận lời cầu xin của ông!

Linh mục Tomlinson đi vào lều và nằm xuống giường. Ông chỉ còn trông thấy hai chân Zuleika. Thật đáng thương, đôi chân nhỏ bé đó với bóng tối huyệt mà người ta vừa chôn sống nàng!

Những tiếng la hét lại tiếp tục nổi lên ngoài bãi, cách khoảng nhau đều đều. Ông lấy bàn tay bịt tai để khỏi phải nghe nữa. Nhưng những tiếng kêu đó vẫn vang dội trong lương tâm ông. Mỗi tiếng kêu là một viên đá... một viên nữa... viên nữa... còn viên nữa... Cuối cùng cảnh yên lặng nặng nề đối với ông lại như một sự ân xá. Ông duỗi người ra và nắm dài trên giường không cựa quậy.

*

Một tiếng động làm ông ngẩng đầu lên. Tên cận vệ của thiếu tá Grant bước vào lều. Đó là một gã Ả-rập ở Yémen, da đen, mặt dữ tợn, ria mép giống như một chàng đội nhất của đoàn phòng vệ. Cái bình trà trông như khiếm nhã trong bàn tay thô lớn của y.

- Thưa Sahib, ngài có xơi trà không? Thiếu tá Sahib (4) bảo tôi đến báo với ngài là ngài hãy sửa soạn khởi hành.

Cha Tomlinson đặt hai chân xuống đất, uống một hớp trà. Rồi ông hỏi:

- Đã xong chưa?

- Bẩm Sahib, nước trà hay sao?

- Không, đồ ngốc, hình án ném đá cơ. Đã xong chưa?

Tên cận vệ làm một cử chỉ có vẻ ghê tởm, tưởng như sắp nhổ xuống cát và lại ngừng ngay, có lẽ sợ vô lễ.

- Vâng, thưa Sahib, xong rồi. Những con chó Audhalis kia... Thiếu tá Grant, thưa Sahib, là cha mẹ tôi, nhưng đôi khi, ông xử sự như một đứa trẻ. Nếu ông hỏi ý kiến tôi, tôi, một tên đầy tớ của ông, chắc tôi đã khuyên ông khác hơn. Cuối cùng, ông lầm lẫn, vì tấm lòng trung hậu của ông.

Cha Tomlinson kêu lên:

- Hình án ném đá! Nhưng có gì xẩy ra?

Tên cận vệ trả lời, mặt phụng phịu:

- Không một viên nào trúng đích. Cũng chẳng có máu mà cũng chẳng có thể thao gì. Những người Audhalis ném đá về phía Aden, Muscat và biển Oman, và không ném đá vào đầu tội nhân. Tất cả thế, đều là lỗi của thiếu tá. Vì lòng thương, ông hứa cho một nửa ru-pi (5) viên đá nào ném trúng đích. Được lắm. Nhưng khốn thay, ông lại còn hứa cho một viên đạn 303, làm quà an ủi cho người nào ném sai. Nếu ông hỏi thăm tôi, tôi sẽ bảo cho ông biết là đối với dân Audhalis viên đạn 303 đáng giá hai ru-pi. Thiếu tá không biết và những con chó Audhalis kia đã lợi dung sự ngây thơ của ông. Mỗi lần ném đá, người người đều kêu chính là Allah đã hướng dẫn viên đá của họ. Ý muốn của Thượng đế, thật vậy! Zuleika và Ali Baksh sửa soạn hôn lễ. Người ta không còn có thể từ chối chúng điều này. Allah đã xét xử như thế... Nhưng có gì thế? Sahib ốm hay sao?

Vị linh mục ngột ngạt vui mừng. Zuleika khiêu vũ và tươi cười nữa! Grant, con người trầm lặng và không vui đùa, rất hiểu người Ả-rập, đã cứu sống đôi tình nhân mà lại làm thỏa mãn khắp mọi người. Vị linh mục say mê sung sướng. Cuối cùng, ông bảo tên cận vệ:

- Đó là ý muốn của Thượng đế làm lạc hướng những viên đá, vì Thượng đế bao giờ cũng bao dung và Người biểu hiện tất cả tình thương.


GARNETT RADCLIFFE    
VŨ MINH THIỀU dịch      

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 42, ra ngày 11-6-1972)
 
_______________
(1) Sahib : ông, ngài, tiếng tôn xưng ở Ấn-độ và các nước Ả-rập.

(2) Mỗi người mỗi ý, mười người mười dạ, thập nhân thập sắc.

(3) Thủ đô Hồi giáo.

(4) Tên cận vệ dùng chữ Sahib vì chữ ấy có ý nghĩa tôn sùng: Ông, ngài...
 
(5) Tiền Ấn độ và các xứ Ả-rập
 

Không có nhận xét nào:

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>