Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2019
Mẹ và Quê Hương
Mưa cuối đông từng giọt buồn nhung nhớ
Áo sờn vai theo ngày tháng qua mau
Mẹ truân chuyên như nước chảy qua cầu
Gom chất ngất nỗi buồn trong đôi mắt
Mưa cuối đông từng giọt buồn se sắt
Mẹ tảo tần từ trời sáng – mờ sương
Áo mẹ bay khuất cuối nẻo con đường
Gồng gánh nặng trên vai còn mệt mỏi
Vườn mùa thu thơm nồng hương hoa bưởi
Mẹ đều tay sàng gạo – dưới hoa rơi
Mắt mẹ buồn gởi lại thuở xa xôi
Quê nhà cũ chưa phai trong trí nhớ
Sau nếp nhà ngọt ngào khu vườn mía
Có chim chuyền xào xạc lá đong đưa
Và êm đềm trong giấc ngủ ban trưa
Tiếng võng lát lẫn tiếng ru ời ạ
Nắng mùa hè ửng hồng trên đôi má
Chợ chiều tan mẹ quay gót ra về
Ngôi đình làng nhuộm ánh nắng đỏ hoe
Vang trong gió tiếng mục đồng ca hát
Áo mẹ bay giữa khung trời bát ngát
Có đàn chim vừa tung cánh bay qua
Khóm trúc xanh bên rào nứa trước nhà
Con bé bỏng vừa chạy ra đón mẹ
Như mấy đóa mai vàng xinh vừa hé
Như mùa xuân cho chim sáo qua sông
Con mừng vui xanh biếc nụ mắt trong
Mẹ thấy ấm như nắng soi liếp cỏ
Gió ngoài nội về đong đưa nhánh lá
Con ngoài hiên ngơ ngẩn hát hoan ca
Trong vườn xanh đôi bướm đậu hoa cà
Mẹ mắt sáng, môi cười theo giọt nắng
THÔNG XANH
(cỏ xót xa đưa)
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 112, ra ngày 19-10-1973)
Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2019
Độc Tu Đại Kiến
Cả bọn xôn xao bàn tán, ngôn ngữ của họ là những chiếc đầu lúc lắc, những sợi râu ve vẩy và đôi khi hai chân trước cũng được dùng để biểu lộ ý tưởng chất đầy trong cái đầu lớn không hơn hạt cát.
Giờ này có lẽ mới xế chiều. Bọn họ chỉ đoán chừng thế bởi vì chẳng làm sao họ thấy nổi mặt trời nếu không leo lên ngọn cây thông sần sùi vĩ đại. Bọn ấy có ba nhân vật. Lớn tuổi nhất phải kể đến gã thanh niên... "độc tu", lũ bạn thấy gã, nếu không biết rằng gã là một thanh niên độc ác, sẽ phải bật cười như điên bởi vì trên cái đầu tròn trĩnh và bóng loáng của gã chỉ vỏn vẹn có một sợi râu. Gã vẫn thường vênh váo, khoe khoang với bạn bè, đó là chiến tích của gã, đó là dấu vết của lòng anh dũng. Số là có một hôm, gã phiêu lưu vào ngay hang của họ hàng nhà mối. Bọn mối lính nhào ra tấn công gã, thoạt tiên gã chạy trốn, bọn mối lính đuổi theo sát đít, gã hoảng quá đứng lại nghênh chiến. Rủi thay, bọn mối lính có những chiếc ngàm sắc như dao, còn gã vũ khí thì không có, lại phải đương đầu với cả bọn mối. Nhưng vẫn còn may cho gã lắm, bọn mối không thèm giết gã mà chỉ xin gã mỗi một sợi râu để làm kỷ niệm. Thế là gã thành ông kiến một râu.
Từ khi mất đi sợi râu quý giá ấy, gã bực mình không ít mỗi khi muốn nói chuyện với ai, vì người ta không hiểu nổi gã. Gã đâm ra tự cao tự đại, cho đến một hôm gã vùng lên xưng là "ĐẠI KIẾN ĐỘC TU". Gã bắt đầu muốn cho mọi kẻ phải biết đến danh hiệu của gã. Trước tiên, gã chận đầu lũ kiến bé con đang chơi đùa ngoài cửa hang. Gã dùng sợi râu còn lại vuốt vuốt trên đầu từng đứa một. Bọn trẻ nhìn thấy hình dáng kỳ lạ của gã đứa nào cũng sợ chạy tuốt vào trong hang.
Bọn kiến tí hon ấy về loan tin ầm ĩ, thế là cả làng đều xôn xao, kéo nhau ra xem cái bộ mặt kỳ lạ của gã. Gã đứng trên một ngọn cỏ xanh mướt, ngo ngoe chiếc râu độc nhất, ra vẻ tự đắc lắm. Giá mà gã nói được thì gã đã xưng vương ầm ĩ rồi. Nhìn một lượt đám nhân loại hiếu kỳ xung quanh, gã nhảy xuống đất, chạy đến bên một cô bé kiến be bé, xinh xinh. Gã dụi sợi râu vào cô bé để truyền cho cô luồng sóng điện:
- Này, đi báo cho tất cả biết ta là "Độc tu đại kiến" nghe chưa.
Cô bé run rẩy, lẩn vào đám đông và chỉ vài phút sau, cái tin "Độc tu đại kiến" xưng vương đã lan tràn khắp làng.
Gã dại quá đi mất, ai đời dám xưng vương trong khi ngài kiến Chúa còn sống sờ sờ ra đấy. Các quan vào tâu với ngài, và ngài đùng đùng nổi giận, khổ nỗi, ngài không nói được nên mặc dù ngài đang nổi trận lôi đình, các quan chỉ thấy tiếng kèn kẹt phát ra từ hai chiếc răng vĩ đại của ngài nghiến vào nhau và cặp râu rung rung, chứng tỏ ngài chỉ muốn nghiền nát cái tên đã xưng là "Độc tu đại kiến" mà thôi. Thấy ngài ra hiệu, một vị quan bò lại bên ngài, cúi xuống nghe ngài dạy bảo. Ngài vuốt vuốt 2 sợi râu vào râu của vị quan, bảo:
- Ra bắt nó vào đây! Mau lên.
Ông quan vâng lệnh, dẫn một tiểu đội kiến đi bắt tên phản loạn.
Trong khi đoàn kiến hùng dũng đi một cách chậm chạp như... kiến ra khỏi cửa hang để tìm bắt, thì gã và hai tên "đàn em" đang say sưa bàn tán thật là xôn xao, tìm cách để đoạt ngôi của ngài kiến chúa.
Hai tên đàn em này ít tuổi hơn gã và có phần ít tự kiêu hơn gã. Từ hôm xưng vương đến nay, gã mới có hai bầy tôi phò giá. Nhưng gã cũng chẳng thèm buồn, bởi vì mưu mô của gã cao lắm. Gã sẽ không đem quân sự về uy hiếp triều đình, nhưng gã sẽ cho đàn em hạ sát ngài kiến chúa rồi sẽ mở... cửa hang rước gã vào làm vua.
Hai tên đàn em này nhát lắm, đứa nọ đẩy cho đứa kia công việc thích khách, gã bực mình:
- Tụi bay nhát sợ đến thế à?
- Em đâu có sợ!
- Em cũng đâu có sợ!
Gã vểnh râu, quát:
- Không sợ sao không đứa nào chịu làm công việc đó?
- Tại...
- Tại em muốn theo phò giá đại vương.
- Em cũng thế.
- Để tao phò giá đại vương là đủ rồi.
- Mày còn lâu mới đủ sức... Như ta đây...
Nghe bọn đàn em vãi nhau, gã cáu tiết:
- Ta không cần đứa nào phò giá hết, cả hai đứa bay phải đi hết.
Hai tên đàn em lo sợ, run rẩy. Gã toan bồi thêm một câu nữa thì từ xa, thấp thoáng sau bụi cỏ xanh gã thấy một bọn kiến đang di chuyển. Bọn nào vậy ta, không biết có phải tụi này được sai đi bắt gã không, làm gì có chuyện ấy, trên đời này đố đứa nào dám đụng đến "Độc tu đại kiến", nếu vậy chắc hẳn bọn này tìm đến với gã để xin đầu quân. Thế thì còn gì bằng. Hẳn bọn này khoái gã lắm mới lặn lội đường xa mà tìm gã.
- Các khanh đã từ bỏ bạo chúa để đến với ta đó hả?
Gã muốn nói thế lắm. Khổ nỗi loài kiến của gã không được trời ban cho lưỡi để nói, thôi đành chờ bọn này đến gần vậy. Mười ba tên kiến lửa đỏ chói bao vây quanh hòn đất. "Độc tu đại kiến" để mặc cho hai đàn em tiếp chuyện với lũ binh triều đình. Gã đứng vênh chiếc râu độc nhất lên trời, ngắm mây trắng trôi lờ lững. Nhưng bọn binh triều đình không thèm nói chuyện với hai tên đàn em kia, mà lại kéo nhau leo lên chỗ gã đứng.
Gã tiến đến bên vị quan, quờ quạng sợi râu.
- Khanh tìm ta có chuyện gì?
Viên quan không hiểu rõ gã nói gì, nhe hai chiếc răng đớp ngay vào sợi râu của gã một cái nên thân. Tụi này gan thật, chúng bay đã chạm đến "Độc tu đại kiến", bay phải chết.
Gã xông vào tấn công bọn kiến lính. Quả cũng không hổ danh "Độc tu đại kiến". Gã tấn công thật ác liệt, hai tên đàn em cũng nhào lên tấn công quân triều đình. Bọn lính hơn phe của gã những mười tên, nên chỉ sau vài giây cầm cự, hai tên đàn em của gã bị tám tên kiến lửa xông vào chia nhau mỗi đứa một khoảng thịt để cắn nhừ tử, còn gã cũng nao núng không kém gì. Khắp mình gã đầy vết thương. "Đại vương" gặp nạn rồi, giờ này mà còn cố nán lại để chiến đấu thì thế nào cũng toi mạng, chạy là tốt nhất.
Nhìn trước nhìn sau, gã tuôn chạy. Bọn kia đuổi theo kéo thành vết dài trên cát trắng. Gã chạy thật nhanh. Giá gã là một tên kiến gió thì chắc chắn bọn quân triều đình không tài nào đuổi kịp gã, khổ nỗi gã lại là một con kiến chẳng ra vàng mà cũng chẳng ra nâu, thành ra bò chậm như... kiến.
Thế mà gã lại thoát nạn, còn ai tài bằng gã không? Cũng nhờ vào cái tính liều lĩnh của gã. Thấy bọn lính triều đình không chịu buông tha, gã nhắm ngay hang mối mà đâm đầu tới. Mối với kiến là hai giống không đội trời chung, bọn quân triều đình làm sao dám bén mảng đến gần hang của kẻ thù.
Thế là... "viên" quan kiến đành ra lệnh rút lui. Gã chờ cho đám lính triều đi thật xa mới lò dò về chỗ cũ. Hai tên đàn em của "đại vương" đã bị bọn kiến lửa tha xác đi mất rồi.
Ôi cái cảnh anh hùng thất thế của "Độc tu đại kiến" sao mà ảm đạm thê lương quá. Gã ngồi ủ rũ bên khóm cỏ xanh, gặm nhấm từng đọt cỏ non, buồn bã, cô độc.
Họ hàng nhà kiến đã loại trừ gã, mà bè lũ nhà mối thì không bao giờ chịu cho gã nhập... "quốc tịch mối" hết. Thì thôi vậy, gã đành bơ vơ giữa những "sa mạc" cát vĩ đại và các "khu rừng" cỏ xanh bao la. Gã tự an ủi mình và nhất định không thèm buồn. Gã sẽ đoạt ngôi báu, nhất định là gã sẽ lên làm vua. "Độc tu đại kiến" sẽ là hoàng đế của "vương quốc" kiến vàng.
Ánh nắng tắt dần trên các ngọn cây cao. Trời sắp tối rồi, người anh hùng sa cơ vẫn ngồi ủ rũ với những vết thương đau buốt. Trời tối dần, tối dần... Gã nhai hoài những đọt cỏ non chán ngấy. Tối nay gã sẽ đi kiếm ăn... Cách chỗ này khá xa, có một kho thiên nhiên vô tận chứa hàng núi thức ăn. Bây giờ gã đi đến đó là vừa.
Gã kiến cụt râu uể oải đứng dậy, đi về phía có kho tàng khổng lồ ấy.
Mãi đến khi trời tối mù mịt gã mới tới nơi. "Kho tàng" mà gã tìm đến là một cái tủ đựng thức ăn đồ sộ. Chật vật mãi gã mới bò lên được tới ngăn để thức ăn. Trước khi đột nhập, gã đưa mắt quan sát khắp nơi tìm xem có cái bóng khổng lồ nào không. Những tên khổng lồ ấy mà phát giác ra gã thì chỉ trong nháy mắt gã sẽ bị chết bẹp dí dưới ngón tay to lớn của bọn chúng. May thay, trời tối chẳng có kẻ nào thèm thấy cái bóng nhỏ như... kiến của gã. Thế là gã bò vào, tìm đến kho tàng nào thơm nhất, béo nhất và ngon nhất. Chẳng phải tìm lâu, gã đã khám phá ra một núi chất ngọt. Vừa liếm những giọt sữa ngọt lịm, vừa ve vẩy chiếc râu cụt ngủn, nom gã như là một nhà thơ vừa uống rượu vừa ngâm thơ vậy. Gã không là một nhà thơ nhưng gã lại là một tay anh kiệt: "Độc tu đại kiến" cơ mà!
Gã đang say trong hơi men... sữa bò, thì đột nhiên trái núi tròn, hình trụ gã đang đứng bỗng rung chuyển mạnh như động đất. Gã mở to hai con mắt xuyên thủng bóng đêm. Chao ơi một tên khổng lồ đang cầm cả kho tàng của hắn lên, nghiêng đổ dòng sữa ra chiếc ly nhỏ. Ba hồn bảy vía gã bay đi đâu mất. Gã liền buông mình vào khoảng không mịt mù để khỏi bị tên khổng lồ phát giác. May thật là may, gã đã an toàn rơi xuống đất. Cái họ nhà kiến dù có rơi từ trời xuống cũng chẳng việc gì. Tình thế đã nguy hiểm như thế mà gã chẳng coi ra gì. "Độc tu đại kiến" nhà ta bò lên chân của tên khổng lồ, ra sức cắn thật mạnh, rồi buông mình xuống đất bò vào đêm tối.
"Tên khổng lồ" kia mò xuống bếp pha sữa, đang lui cui bỗng bị con kiến ranh nào đớp một phát vào chân, đau quá hắn hét lên, làm rơi chiếc ly vỡ tan tành. Hắn than lên khe khẽ:
- Ông mà bắt được con nào thì ông giết, kiến ơi là kiến!
Trong khi ấy thì "Độc tu đại kiến" đã bò ra đến cửa bếp.
*
Sáng hôm sau, trời hồng hồng đẹp thật là đẹp. "Độc tu đại kiến" ẩn trong một khe đá hẹp ngủ như chất. Mãi xế trưa, nghĩa là lúc ánh sáng trời len lỏi vào được hốc đá, thì gã mới ngọ ngoạy cái đầu, mà nhúc nhích sáu cái chân bé như sợi tóc để bước ra ngoài. Vừa ló ra khỏi hốc đá, gã đã thấy nguy: một tên khổng lồ đang thơ thẩn trên "sa mạc" cát, hai chân vĩ đại của hắn dẫm nát "rừng" cỏ. "Độc tu đại kiến chợt nhớ đến kẻ đã cướp núi thức ăn của gã vừa tối hôm qua, gã đùng đùng nổi giận. Phải trừng trị tên này cho nó chừa.

"Độc tu đại kiến" leo vói lên một khóm cỏ cao nhất để quan sát. "Tên khổng lồ" nghiêng cái vật hắn cầm trên tay, đổ ra một dòng suối nước nóng nghi ngút khói. Gã thấy rõ cả "vương quốc" kiến đang náo loạn, nước nóng tràn ngập các cửa hang, hàng chục, hàng trăm, rồi hàng vạn xác kiến trôi theo dòng nước.
Gã đứng chết trân trên ngọn cỏ, nhìn cơn đại hồng thủy cuốn hết giang sơn nòi giống gã. Chợt gã muốn reo lên vì thấy xác ngài kiến Chúa trôi theo dòng nước cuồn cuộn. Rồi đây chỉ còn gã, gã sẽ là hoàng đế của "vương quốc" kiến.
Nhưng "Độc tu đại kiến" ngu dại kia không ngờ "tên khổng lồ" chưa tưới hết xoong nước sôi, còn lại một ít, hắn hắt vào bụi cỏ. Vô phúc thay, bụi cỏ ấy lại là nơi "Độc tu đại kiến" đang ngự trị.
Gã kiến lạ lùng chết không kịp vênh râu xưng hùng.
VÂN SƠN
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 138, ra ngày 1-10-1970)
Thứ Năm, 17 tháng 10, 2019
Về Lại Vườn Xưa
Nắng nhạt chiều se sắt nỗi niềm
Khi mùa thu đến xuyến xao thêm
Ngậm ngùi nghe tiếng lòng diệu vợi
Nhặt lá thu vương vấn mãi tìm
Vườn ai đợi khoảnh khắc sang mùa
Cho tóc buông dài theo gió thoảng
Cho nón nghiêng buồn trong giấc mơ
Hoa tím vườn xưa rụng xuống thềm
Chẳng còn đâu những bước chân quen
Cho ai lưu luyến ngày xa ấy
Mỗi người nay một lối đi riêng
Chim vẫn về trên nóc giáo đường
Khung tường rêu biết mấy thân thương
Phượng vỹ thêu hè loang sắc nắng
Cúc nhạt hôn hoàng thu khói sương
Chiều vẫn chiều qua, chiều nối chiều
Lá vàng từng chiếc lá liêu xiêu
Thấy dáng thu về trên lối ấy
Sao chẳng nghe lòng thôi hắt hiu
Đếm bước chân in vạt nắng mềm
Đường dài hun hút, nhớ hay quên?
Kỷ niệm phai mờ ngày tháng đó
Dĩ vãng lụi tàn xin ngủ yên...
Trần Thị Phương Lan
(Bút nhóm Hoa Nắng)
Thứ Tư, 16 tháng 10, 2019
Thoát Vòng Tăm Tối
Lưu Bái (Louis Braille) lặng lẽ nằm trên giường trong căn phòng nhỏ bé và lạnh lẽo, cố nuốt những giòng nước mắt cô đơn đang chực trào ra khỏi đôi mắt mù lòa của nó. Nó cảm thấy cô độc, cô độc không thể tả được.
Sự thật là tất cả những đứa trẻ khác cùng đến trường này với nó đều là những đứa trẻ khiếm thị cả, Lưu Bái cũng biết thế, và lần đầu tiên trong đời mà nó có thể hy vọng có được tình bạn chân thành, một tình bạn mà không phải do lòng thương hại của kẻ khác.
Nhưng khi nó nhớ lại đôi bàn tay cứng cỏi của bố nó thì sự sợ hãi và cô đơn lại ào đến. Lúc này bố, mẹ nó đang ở cách xa nó trong ngôi làng bé nhỏ nước Pháp nơi Lưu Bái đã chào đời. Bây giờ nó sống lạc lõng và cô đơn trong kinh thành ánh sáng Ba Lê rộng mênh mông và ồn ào với các đường phố lúc nào cũng đặc kịt xe cộ và khách bộ hành. Nó sẽ phải tự tìm lấy lối đi trong một thế giới đầy bóng tối, một thế giới với những khung cảnh xa lạ mà nó sẽ chẳng bao giờ có thể nhìn thấy được.
Cộc, cộc, cộc... nghe thấy âm thanh quen thuộc này, Lưu Bái vội ngồi dậy, chắc lại một chàng mù nào đó đang mò mẫm hường về phía phòng nò.
Cộc, cộc, cộc... tiếng động ngưng trước cửa phòng nó, rồi có tiếng mở cửa và có tiếng một đứa con trai hỏi: "Lưu đâu?". Nó đáp: "Tớ đây".
- "Tớ là Chà Lý (Charlie), ở phòng bên cạnh, tớ qua đưa cậu xuống ăn sáng".
Lưu Bái vội vớ lấy cây gậy và khua lọc cọc hướng về giọng nói thân mật. Nó quờ quạng, bàn tay của hai đứa chạm nhau và Lưu bật cười nhỏ. Chà Lý nắm lấy bàn tay Lưu áp vào mặt mình mà nói:
- "Đây này, mặt tớ đây này. Mắt tớ tròn tròn, tóc quăn, có một cái nốt ruồi trên má... đó, đó... thấy không?"
- "Ồ... ồ... tớ thấy rồi, tớ chưa sờ thấy một cái nốt ruồi bao giờ".
Chà Lý điềm tĩnh nói:
- "Chắc nó trông buồn cười lắm nhỉ?"
- "Tớ cũng nghĩ vậy".
Cả hai cùng cười ngặt nghẽo, té ra Ba Lê cũng không đến nỗi tệ. Mới có buổi đầu tiên ở đây thế mà nó đã có bạn rồi. Chiều hôm ấy Chà Lý rủ Lưu Bái đi bách bộ ngoài phố. Nó nói:
- "Tớ hiểu rõ vùng này lắm. Tớ có thể tìm đường về dễ như con chim bồ câu tìm về chuồng cũ".
Chà Lý vừa dẫn Lưu đi vừa kể cho nó nghe về những chỗ hai đứa vừa đi qua:
- "Bây giờ tụi mình đang đứng trước một thánh đường. Mẹ tớ thường dẫn tớ đi lối này mỗi lần mẹ tớ đến thăm tớ".
Lưu Bái thấy sợ hãi và cô đơn hơn là lúc nó ở trong phòng. Nhớ tới những câu chuyện kinh khủng về những người mù trong thành phố lớn thỉnh thoảng bị bọn vô lại chọc phá, tự nhiên Lưu đi sát vào Chà Lý hơn trước. Chà Lý tiếp tục câu chuyện:
- "Này, đằng ấy có ngửi thấy mùi bánh nướng không? Chúng mình đang đi qua một tiệm bánh, họ bán những cái bánh nho nhỏ ngon tuyệt, lại có rắc đường ở trên cơ chứ! Chừng nào bố đằng ấy tới thăm, đằng ấy phải mời ông cụ mua ăn thử mà xem".
- "Tớ có một ít tiền trong túi đây này, bố tớ cho tớ để tớ muốn tiêu gì thì tiêu, mình mua vài cái ăn thử đi".
Tiệm bánh thật là ấm áp và lừng mùi thơm của bánh nướng. Lưu Bái nói với người đàn bà bán hàng:
- "Bà bán cho tôi vài cái bánh nướng, thứ có rắc đường ở trên đó".
- "Bà bán cho tôi vài cái bánh nướng, thứ có rắc đường ở trên đó".
- "Màu hồng hay màu xanh?"
Lưu ngập ngừng mất một lát, sau cùng nó nói:
- "Mùi vị có khác nhau không?"
- "Không, chỉ có khác nhau về màu sắc thôi".
Lưu thở dài với vẻ bực bội:
- "Nếu thế thì bà cho chúng tôi thứ nào cũng được. Đối với chúng tôi thì màu nào chả giống màu nào"
Nó đưa một nắm đầy bạc cắc, bà bán hàng đưa cho nó gói bánh đồng thời thối tiền lại cho nó:
- "Tiền thối của em đây, qua không có ăn gian của người mù đâu!"
Lưu theo bạn ra khỏi tiệm với một vẻ thư thái hơn là khi nó bước vào tiệm. Đi dạo chơi trong kinh thành là cả một chuyện mạo hiểm chứ đâu phải chơi. Khi hai đứa bắt đầu đi ngược lại con đường đã đi để về trường, bỗng Lưu nghe có tiếng chân người rầm rập đuổi theo, rồi có tiếng trẻ con cười đùa léo nhéo:
- "Ê, ê... mấy thằng ăn mày! Bánh đó đâu phải của tụi bay. Tụi bay xin ở tiệm bánh mà, đưa đây cho tụi tao mau!"
Lưu cảm thấy có đưa đưa ngón tay trỏ dí vào đầu nó, thế là nó rú lên kêu cứu bằng một giọng vừa kinh hoàng vừa đau đớn. Một đứa trong bọn vô lại đã giật phắt mất gói bánh, Lưu chỉ biết kêu cứu, không biết đằng nào mà lần nữa. Chợt nó nghe một giọng rắn rỏi ra lệnh:
- Chúng mày có thôi ngay đi không nào!
Thế là tiếng léo nhéo và tiếng chân của bọn vô lại xa dần. Lưu run lẩy bẩy đến nỗi gần như đứng không vững nữa, nó cảm thấy dường như máu đang chảy đằng sau gáy. Người đàn ông vừa giải cứu hai đứa khỏi bọn du đãng không ngớt miệng xuýt xoa:
- "Trời ơi! Tội nghiệp không! Các con có làm sao không? Thật tội quá, tội quá! sao chúng nó lại có thể nhẫn tâm đến thế được nhỉ??
Lưu vẫn còn bàng hoàng và đứng khóc thút thít, nhưng Chà Lý thì không. Nó bình tĩnh hỏi:
- "Ông là ai?"
- "Ta là Cha Tô Ma (Thomas). Ở trong nhà thờ ta nghe tiếng các con kêu cứu ta chạy ra xem sao. Nào, giờ các con hãy vào đây với cha, ta không thể để các con về trường với hình dạng như thế này được, thật là tội cho các con quá!"
Lưu gần như lặng đi vì bất ngờ, để mặc cho vị linh mục kéo mình vào nhà thờ. Mãi đến năm 3 tuổi nó mới bị mù, nhưng chưa bao giờ nó thấy có sự lạ như thế xẩy ra ở trong làng.
Cha Tô Ma dịu dàng an ủi Lưu:
- "Đừng khóc con ạ, mấy đứa trẻ đó không hiểu việc chúng nó làm đâu. Thế giới này còn cần đến lòng tử tế nhiều lắm. Không phải chỉ riêng có những kẻ không nhìn thấy mới là người mù, những người nao không biết giúp đỡ và săn sóc lẫn nhau cũng đều là những người mù cả".
Lưu khóc:
- Thưa cha! Con mới đến trường thành ra con cô độc quá. Cô độc trong cảnh tối tăm thế này khổ lắm cha ơi!
Vị linh mục buồn rầu trả lời:
- Con ơi! Ngoài tình trạng tăm tối mà con phải gánh chịu, trên đời này còn nhiều loại tăm tối khác nhau nữa con ạ. Chẳng hạn như không có gì đen tối cho bằng những người không biết đến tình thương yêu đồng loại, như những đứa trẻ chọc phá các con ban nãy, chúng đang sống trong một tình trạng tối tăm và xấu xa hơn các con nữa.
Lưu vẫn ấm ức khóc:
- Làm sao có thể như thế được, chẳng có gì chán hơn là bị mù cha ơi!
- Con lầm rồi. Những người nào có mắt mà không chịu mở ra để thấy được những nhu cầu của đồng loại thì họ chẳng những mù mắt mà mù luôn cả tâm hồn nữa. Thiếu học hành cũng là một tình trạng tối tăm mù lòa khác nữa. Con được đi học thế là con còn may mắn lắm đó. Ta được biết là ở trong trường mù, các con sẽ được học đọc, học viết. Học được những thứ đó là một phần của sự tăm tối sẽ phải rời xa các con.
Tối hôm ấy, Lưu nằm một mình trên giường và nhớ lại những lời cha Tô Ma đã nói lúc ban sáng. Tuy nhiên sự cô độc mà nó đang chịu hiện giờ cùng với cảm giác hãi hùng lúc bị tấn công hồi sáng vẫn có tác dụng mạnh hơn là những lời khuyên nhủ của vị linh mục nhân từ. Sau cùng Lưu quyết định sẽ nói với bố nó để đón nó về nhà, nhưng biết làm cách nào để báo tin cho ông cụ đây? Nó không biết viết, và nếu nhờ một người nào đó trong trường viết hộ thì ông giám đốc sẽ biết ngay, biết đâu ông ấy chẳng nổi giận và có thể chặn bức thư ấy lại. Trước kia chưa bao giờ Lưu thấy việc tự tay viết một lá thư lại quan trọng đến thế. Trằn trọc suy nghĩ mãi, sau cùng Lưu dứt khoát:
- Nếu mình thật cố gắng, có lẽ mình sẽ đọc và viết được trong vòng 2 hay 3 tuần lễ, rồi mình sẽ viết thư cho bố và bảo bố đến đón mình về.
Vài tuần sau đó, Lưu cố gắng hết mình để tập đọc. Vốn là một đứa trẻ khá sáng dạ, Lưu học khá nhanh. Tuy nhiên phương pháp dạy học thời đó dành cho người mù là một phương pháp chậm chạp và cồng kềnh. Các chữ đều được in nổi và lớn để người mù dùng đầu ngón tay sờ và nhận mặt chữ, do đó mỗi quyển sách trở nên rất lớn và nặng nề, mà cách đọc vẫn chậm chạp. Càng ngày Lưu càng trở nên chán nản. Ngoài ra tuy Lưu học nhanh nhưng nhà trường lại thiếu sách vở. Chẳng những thế nó còn khám phá ra rằng nhà trường không có phương pháp nào để dạy cho người mù học viết. Điều đó có nghĩa là Lưu chẳng mong gì có dịp tự tay viết thư cho Bố nữa. Một hôm, nó thố lộ tâm can với Chà Lý. Nghe xong, Chà Lý thở dài:
- Tại sao đằng ý lại băn khoăn quá về việc học viết làm gì? Tớ mà biết đọc là cũng đủ khoái lắm rồi. Tớ ở đây lâu hơn cậu nhiều mà tớ cũng đã biết đọc đâu! Sách vở thì nặng nề kềnh càng quá, lật được trang sách cũng còn thấy khó khăn nữa. Và rồi lúc đọc, tớ sờ nhận được mặt chữ cuối thì quên khuấy mất chữ đầu. Tớ e rằng là chả bao giờ tớ học đọc được cả!
- Còn tớ thì e rằng chả bao giờ tớ học viết được cả!
Bữa cơm chiều hai đứa lại ngồi cạnh nhau ở bàn ăn như thường lệ. Đến món súp, Lưu nghe rõ tiếng thìa súp của người bồi bàn khua leng keng vào thành bát của nó, nhưng khi nó đưa thìa súp vào miệng thì mới biết là trong bát chẳng có tí súp nào, thìa của nó vẫn khô queo. Lưu lòng đầy cay đắng thì thào với Chà Lý:
- Nó không cho tớ súp!
- Ừ, bọn nó lại ăn gian tụi mình rồi. Mình phải khiếu nại lên ông giám đốc mới được.
Nhưng Lưu không làm như Chà Lý đề nghị. Lòng đầy buồn rầu, nó quyết định đến thăm cha Tô Ma để nhờ cha viết thư hộ. Lưu được cha đón tiếp nồng hậu:
- À con đấy hả? Thế nào, con ở trường ra sao?
- Thưa cha con không được sung sướng. Người ta dạy dỗ không được khá. Họ chả có phương pháp nào để dạy chúng con viết và nhiều anh em gặp khó khăn trong việc tập đọc, như anh Chà Lý, bạn con. Anh ấy đã ở đấy còn trước con nhiều thế mà vẫn chẳng học được gì cả. Con e rằng cha nghĩ sai về trường con rồi, thưa cha. Cái gánh nặng tối tăm đó vẫn còn nặng chĩu trên vai con.
Cha Tô Ma buồn rầu hỏi Lưu:
- Thế là con không đạt được tiến bộ nào trong việc tập đọc phải không con?
- Thưa cha có chứ! Con tiến được nhiều lắm, con may mắn hơn nhiều anh em khác vì con học rất nhanh. Nhưng mà ở đây, trong cái thành phố Ba Lê này, con không thấy vui sướng chút nào. Con không dám ra đường, còn ở trong trường thì bọn bồi bếp ăn cắp. Con muốn về nhà. Con muốn nhờ cha viết hộ con một lá thư cho bố con đến đón con về, thưa cha, cha giúp con một chút được không?
Vị linh mục ngập ngừng giây lát, rồi đột ngột hỏi:
- Con có giúp bạn con không? Con có giúp Chà Lý tập đọc không? Trong lúc con hiểu mà Chà Lý thì không, con có giúp Chà Lý không?
- Xin cha đừng hỏi con như thế. Con chỉ muốn biết lả cha có sẵn lòng viết thư hộ con không?
Một lần nữa Tô Ma lại trầm ngâm, im lặng. Một lát sau, ông hỏi:
- Con cho ta biết con đã có lần nào cố tập viết chưa? Con biết đọc tức là con đã biết hết các mặt chữ rồi, con có thể nhớ và hình dung được các mặt chữ ấy trong trí con không?
Lần này đến lượt Lưu im lặng. Nó tư lự một lúc lâu đến nỗi cha Tô Ma tin chắc là ông đã làm cho thằng bé hiểu rõ ý ông muốn nói. Ông hỏi tiếp:
- Con ạ, về trường con cố nghĩ kỹ lại những điều ta vừa nói. Nếu đến sáng mai mà con vẫn giữ ý định cũ thì hãy trở lại đây, ta hứa sẽ viết hộ con lá thư như ý con muốn.
Tuy nhiên hôm sau Lưu không trở lại. Mãi đến gần hai tuần sau nó mới trở lại thăm cha Tô Ma, toàn thân như muốn run lên vì xúc động, mặt rạng rỡ với niềm vui chiến thắng. Gặp cha Tô Ma nó đưa ngay một tờ giấy gấp làm tư, trên mặt giấy là những hàng chữ như sau:
"Thưa cha Tô Ma,
Con đã giúp cho Chà Lý biết đọc, Chà Lý sướng lắm nhưng con còn sướng hơn anh ấy nữa. Con tập viết, rất khó, nhưng con đã viết được, con sẽ ở lại trường. Con không thấy tối tăm như trước nữa, con đã hiểu ý cha. Nếu những người mù không giúp đỡ lẫn nhau thì còn mong ai giúp họ nữa? Con sẽ cố tìm một phương pháp nào khác hay hơn để tập đọc và viết.
Con,
Lưu Bái"
Từ đó Lưu Bái đặc biệt quan tâm đến việc tìm tòi một phương pháp hữu hiệu để giúp cho người mù học đọc và viết. trong suốt 30 năm trường, Lưu Bái nghĩ ra được nhiều phương pháp. Phương pháp sau cùng mà ông khám phá ra và hoàn tất vào những năm ông gần qua đời (ông chết năm 1852) đến ngày nay vẫn còn được dùng trên khắp thế giới đó là phương pháp Braille. Nhờ phương pháp này, ngày nay những người khiếm thị đọc được cả nhạc nữa và học đọc cũng như viết chữ nhanh không kém bất cứ một người nào khác. (Bảng mẫu tự, số và dấu của phương pháp Braille xin xem lại Thiếu Nhi số 32, bài Helen Keller của Đặng Hoàng, trang 5).
VĂN VIỆT
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 61, ra ngày 22-10-1972)
Thứ Ba, 15 tháng 10, 2019
Bài Nhạc Khẩu Cầm
1. Hình như con bé hơi bĩu môi mỗi khi thấy Võ đi ngang – Võ chỉ đoán thế bởi vì sau đó con bé đã quay đi. Mọi lần thì Võ không để ý đến, Võ nhìn con bé như nhìn tất cả những đứa ở trong xóm này, những đứa bạn quen và kể cả những đứa không quen. Thế nhưng lần này Võ lại bận tâm. Võ dừng bước, và hơi lấy làm lạ vì từ hôm về nhà đến nay Võ mải chơi, đã bỏ quên một nhận xét đáng lã phải có ngay từ đầu: con bé không phải là người của xóm này. Nói một cách khác, con bé là một người lạ – ít nhất là lạ đối với Võ. Võ đi xa nhà đã tròn một năm. Khi trở về Võ thấy mình lớn. Không biết lớn với ai nhưng Võ cảm thấy ít nhất mình cũng lớn hơn con bé này. Nghĩ vòng quanh như thế, rồi Võ mỉm cười. Võ thọc tay vào túi quần, đứng nhìn con bé thật lâu. Ý chừng con bé tưởng Võ đã đi xa, nên quay mặt lại. Võ bắt gặp một đôi mắt tròn, to và dễ thương.
Võ nghịch ngợm quá chăng? Bởi vì trong khi con bé luống cuống, thì Võ lại lẩm bẩm: "Tẽn tò, tẽn tò" làm con bé đỏ mặt lên. A, nếu là Võ, Võ sẽ bỏ chạy vào trong. Nhưng cái con bé này mới lạ, nó vẫn cứ ngồi đấy. Dáng dấp nhỏ nhắn của nó in lên khung cửa sổ như một bức ảnh bán thân.
Võ cứ đun tay vào túi quần, đứng nhìn con bé bằng ánh mắt trêu chọc. Cách nhau một vòng rào nhưng Võ cũng nhận thấy con bé đang có vẻ tức lên. Tự nhiên Võ thấy tội nghiệp, và hơi ân hận. Nội cái chuyện trêu một đứa bé nhỏ tuổi hơn mình cũng đủ cho bà ngoại đánh đòn rồi. Nếu bà ngoại biết rằng mấy ngày về nhà Võ chỉ đi chơi rong, nay lên xóm trên đánh đáo với thằng Lang, mai xuống rủ thằng Chí đi câu cá, rồi mỗi lần đi ngang đây lại chọc cho con bé này "ốt dột", thì không biết bà ngoại sẽ la rầy nhiều chừng nào. Thế nhưng bà ngoại hầu như chẳng hề biết đến những điều ấy. Hôm qua bà ngoại bảo Võ: "Tao thấy mi lớn ghê Võ ạ!" Thế là mặc nhiên bà ngoại đã xem Võ lớn hơn xưa rồi. Võ không biết phải nên buồn hay nên mừng.
Ý nghĩ vừa rồi làm Võ bâng khuâng. Võ cúi đầu cất bước, chừng như đã quên con bé đàng sau khung cửa sổ. Võ nhận thấy khung cảnh quen thuộc của xóm nhỏ vẫn chẳng hề thay đổi. Chỉ có những đổi mới trong tâm hồn Võ – chẳng quan trọng gì mấy nhưng làm Võ hơi nao nao, giống như tâm trạng của Võ thuở bé khi nhìn thấy bác phu đốn ngã cây chùm ruột trước sân nhà. Một năm đi theo anh Bản vào Saigon, Võ đã học được nhiều điều mới lạ. Ở đây không có. Ở đây chỉ hạn hẹp gò bó một số hình ảnh quen thân đến độ nhàm chán. Võ thương bà ngoại lắm, nhưng Võ muốn đi xa, ít nhất là hai, ba năm, rồi về lại đây với ngoại. Võ thích sống náo nhiệt như một người lớn. Hơn thế nữa, Võ còn ước có một khoảng thời gian tung hoành, mà nếu sống mãi ở xóm nhỏ này, sẽ không thể có.
Có tiếng thằng Lang gọi Võ. Hắn đang ôm một con gà chọi. Mình mẩy hắn lem luốc cả mồ hôi và đất bẩn. Võ nheo mắt hỏi:
- Đi đâu về đó?
- Đi chọi gà. Mi đi không, Võ?
- Sao lại không!
Thằng Lang vuốt ve lưng con gà, tấm tắc:
- Tao cho mi mượn con gà ni. Vô địch đó nghen! Chuyến ni mà thắng nữa, tao với mi đi ăn bún bò.
Võ giơ một ngón tay lên:
- Nhất!
Thằng Lang chạy trước, Võ chạy theo. Võ bỏ quên ý nghĩ vẩn vơ lúc nãy thật mau. Và tưởng tượng đến cảnh chọi gà ở xóm dưới, Võ hứng chí đá tung một chiếc lon hộp dưới đất, miệng huýt sáo vang rân.
2. Võ trở về sau khi ăn một chầu bún bò với thằng Lang. Qua con đường cũ Võ lại thấy con bé vẫn còn ngồi đấy, sau khung cửa sổ. Lần này con bé cũng lại bĩu môi, cũng lại toan quay mặt đi nhưng bỗng ngừng lại, nhìn chăm chăm vào người Võ rồi lấy tay che miệng cười. Võ ngạc nhiên dừng bước, cúi xuống nhìn quần áo mình. Khi khám phá ra nguyên nhân làm con bé cười, tự nhiên Võ nghe nóng bừng hai tai. Ôi chao! Phải chi cái áo bị rách hay cái quần bị lấm đất cũng chẳng hề chi. Đàng này, một cọng bún to tướng vắt tòn ten trên túi áo, trông khôi hài không chịu được. Con bé cứ che miệng cười. Võ bậm môi, vừa mắc cỡ vừa nổi cáu. Võ hất cọng bún rớt xuống đất, lấy chân chà lên. Con bé vẫn cười. Võ bực quá la lên:
- Ê, cười hở mười cái răng!
Câu nói của Võ làm con bé nín bặt. Nó lườm một cái và quay đi. Hình như đôi mắt nó long lanh. A, Võ mới kỳ làm sao! Nói với con bé một câu khả ố quá đi mất! Tự nhiên Võ giận mình quá. Con bé đàng sau khung cửa sổ trông cũng dễ thương ghê đi, sao Võ lại không làm quen với nó bằng những lời dịu dàng, mà chuyên môn chọc tức nó không thôi. Bà ngoại mà biết được, chắc sẽ không còn nghĩ rằng Võ đã lớn nữa. Thằng Võ cháu của bà chẳng ra vẻ người lớn chút nào, mở miệng ra là vẫn nói những câu nghịch ngợm.
Võ đứng yên chờ con bé quay lại – như ban nãy. Nhưng nó chẳng thèm quay lại, mà giấu mặt đi. Thế này mới lạ, nếu là Võ chắc Võ đã đi vào trong nhà rồi. Con bé này khoái ngồi nơi cửa sổ. Chắc nó làm "thi sĩ" – Võ nghĩ như thế mà bật cười.
Tiếng cười của Võ làm con bé quay hẳn người vào trong. Chắc nó tưởng Võ lại trêu chứ gì? Tội nghiệp! Võ thấy mình có lỗi vô cùng. Thế nào trong ý nghĩ của con bé, Võ cũng là một cái gì thật đáng ghét. Nếu đáng ghét thì con bé có thể mắng cho Võ một câu. Bọn trẻ ở trong Saigon hễ không ưa ai là... chửi. Ở cái xóm mà anh Bản và Võ trú ngụ, con gái hỗn "một cây". Bằng tuổi Võ, hoặc nhỏ hơn, cũng còn hay gây lộn và... đánh lộn. Trái lại, bọn con gái ở đây thì hiền, nhưng nếu tức lên thì cũng đối đáp, hoặc "về nhà méc mạ". Chứ cái con bé này mới kỳ làm sao! Chẳng hề phản kháng, mà chỉ ngồi im nơi cửa sổ, chịu đựng sự trêu chọc của Võ.
Võ có lẽ phải chuộc lỗi với con bé. Nó hiền và dễ thương quá đi! Nhìn ở sau lưng nó, Võ thấy hình như có một vẻ gì chịu đựng, nhẫn nhục và âm thầm. Có lẽ con bé không giống như những đứa trẻ khác – cả những đứa bạn ở đây và những đứa bạn trong Saigon. Võ sực nhớ một vật nằm trong túi áo mà nãy giờ Võ chẳng nghĩ đến: cây khẩu cầm.
Võ rút cây khẩu cầm ra, đưa lên miệng. Phải thổi một bản vui mới được. Võ nghĩ đến bài "Con đường vui" mà anh Bản đã dạy cho Võ như một "bản ruột". Hình như khi tiếng khẩu cầm trổi lên, con bé đổi thế ngồi, và có vẻ lắng nghe. Hình như nó hơi xoay người lại nữa. Võ thêm hứng chí và để cho nhịp điệu nhanh dần. Và quả như ý Võ muốn, sau bản "Con đường vui" con bé đã hướng tia nhìn về Võ. Đôi mắt mở lớn lộ vẻ thú vị. Võ định nhét cây khẩu cầm vào túi. Nhưng con bé cất tiếng:
- Thổi bài khác đi!
Võ trố mắt. Giọng nó êm quá chừng! Nhưng không phải giọng của miền này mà giống như giọng của vài đứa bạn Võ ở trong Saigon. A, con bé người miền Nam. Đúng là dân xứ lạ mới đến. Võ nghĩ rất nhanh như thế rồi đưa cây khẩu cầm lên miệng. Lần này Võ thổi bài "Anh hùng ca" – bài nhạc xưa rích, đến bà ngoại cũng biết – và tưởng con bé sẽ lắng nghe như ban nãy. Nhưng nó nhăn mặt, ngắt ngang:
- Không hay. Thổi bài khác đi... "ấy"!
Võ cụt hứng, hỏi:
- Sao vậy? Không thích nghe bài này à?
Con bé gật đầu. Chắc nó ghét nhạc xưa. Ừ thế thì Võ thổi cho nó nghe nhạc mới. Võ trổi khúc nhạc khác. Con bé nghiêng đầu, hỏi:
- Bản gì vậy?
Võ lại phải ngưng thổi, trả lời:
- "Đường trường xa... con chó nó tha con mèo..."
Con bé bật cười:
- Kỳ quá vậy? Không hay.
- Thôi bài "Kìa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng" nghen!
- Không hay luôn. Còn bài nào khác không?
Võ thích thú nói:
- Nhiều lắm chứ! "Ta chiến binh sư đoàn nhảy dù" nè, "Kìa một đoàn người tràn qua biên giới... đi không ai tìm xác rơi" nè... thích nghe bài nào?
Con bé tiu nghỉu:
- Cái gì mà toàn nhạc... kỳ kỳ không vậy? Thôi, chẳng thèm nghe đâu!
Võ hơi nổi sùng. Con bé này chẳng biết điệu tí nào, chẳng thích nghe bài chi cả. Nhưng Võ gắng lấy lòng nó:
- Rứa... thích nghe cái gì?
- Nhạc êm dịu.
- Cỡ như bài nào?
- "Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn" vậy đó!
Võ cắn môi. Tưởng gì chứ bản này quen quá! Con bé thấy Võ lặng im, tưởng Võ không biết nên tiếp:
- "Nước tuôn trên đồng vuông vắn", biết không?
- Biết chứ!
- Vậy thổi cho Minh nghe đi!
Võ mỉm cười. Biết được một điều là con bé tên Minh. Nhưng Võ đang khó trả lời vì bản nhạc quá quen mà Võ không biết thổi. Thế này thì con bé sẽ hết tin ở tài Võ. Nhưng nó đâu biết rằng có những bản cây khẩu cầm này chơi được và có những bản chơi không được.
Võ ấp úng:
- Minh nè, bài đó... quen lắm, nhưng thổi không được.
- Sao vậy?
Tại vì... tại vì... cây khẩu cầm này chỉ thổi được những bài "ma giơ" thôi.
- Chứ bài "Quê hương tôi..."?
- Nó là bài "mi nơ", khó thổi lắm!
Con bé Minh cau mày, khó hiểu:
- Kỳ quá vậy? Tiếc hén! À, bài "mi nơ" là gì vậy?
Lại phải giải thích! Võ cố diễn tả cho con bé hiểu:
- Thí dụ như bài "Mẹ tôi tóc sương nhuộm bạc mái đầu" nè, bài "ai qua miền quê binh khói" nè, bài "Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh" nè, và bài "Quê hương tôi..." của Minh nữa, là những bài "Mi nơ" đó!
Minh reo lên:
- Toàn những bài Minh thích, vậy mà không thổi được. Khẩu cầm kỳ quá ha!
Võ trăn trở cây khẩu cầm trong tay:
- Tại... cây này là khẩu cầm "lô can", thổi được mỗi "đô ma giơ". Chứ người ta có bán những loại khẩu cầm "hách" lắm, thổi được đủ thứ.
- Vậy chừng nào "ấy" mua cây khẩu cầm "hách"?
Võ nhíu mày:
- Mắc lắm, Võ còn nhỏ, làm gì có tiền.
Bây giờ đến lượt con bé hơi mỉm cười vì biết được tên Võ, nó gật gù:
- Ừ ha! Còn nhỏ đâu đã làm gì ra tiền.
Đôi môi nó chúm chím cười thật dễ thương. Võ cất cây khẩu cầm vào túi, nói:
- Minh nè, bữa nào Võ sẽ tập thổi bài "Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn" rồi Võ thổi cho Minh nghe.
- Khó không?
- Võ sẽ gắng. Khi nào Võ lớn, đi làm có tiền, Võ sẽ mua cây khẩu cầm thiệt "hách", thổi đủ các bài.
- Thích há! Võ học ở trong Saigon hở?
- Sao Minh biết?
- Minh còn biết cả cái anh đi với Võ nữa. Minh thấy Võ ngay từ hôm Võ xách va li đi ngang đây.
Võ tự hỏi hóa ra con bé này ngày nào cũng ngồi sau cửa sổ nhìn ra sân hay sao? Thế thì nhàn hạ nhất rồi! Chắc nó ở nơi khác về đây nghỉ hè? Có lý lắm! Và Võ nghĩ đến một nơi nào đó, quê hương của Minh – nơi có con sông đào xinh xắn, có nước tuôn trên đồng vuông vắn...
3. Võ ngại ngần khi sắp đến trước nhà con Minh. Chắc phải tặng cho nó nguyên cả gói kẹo, con bé này hay nhè lắm. Võ vẫn chưa thổi được bài nhạc mà nó ưa thích – và Võ nghĩ rằng chẳng bao giờ Võ thổi được bài nhạc "mi nơ" ấy. Thế mà Võ sắp rời xa quê nhà nữa rồi. Anh Bản đã xin được máy bay và chiều nay Võ sẽ theo anh về Saigon. Võ nghe một thứ cảm xúc nào dâng lên nhè nhẹ trong lòng – không biết có phải gọi đó là "nỗi buồn" hay không?
Con Minh vẫn ngồi sau khung cửa sổ, trông giống như một bức ảnh bán thân. Nó nhoẻn miệng cười khi thấy Võ từ xa. Võ giơ cao bịch kẹo lên:
- Cho Minh nè!
- Thích quá! Ở đâu vậy?
- Mua. Minh ra mà lấy.
Con Minh lắc đầu:
- Võ quăng vô đi!
Võ nhắm cửa sổ ném bịch kẹo vào. Nhưng bịch kẹo rơi ra ngoài. Võ kêu trời. Con Minh tiu nghỉu:
- Làm sao Minh lấy?
- Minh ra mà lấy.
- Không được. Dì Tám không cho.
Võ đâm ra bực bội. Con bé này "đài đệ" quá đi – nói theo kiểu bà ngoại – nó làm như Dì Tám là hung thần hay bà chằng lửa vậy. Võ nghĩ thế rồi vòng tay mở cổng vào. Con Minh la lên:
- Ấy! Ấy! Võ đừng có vô nhà nghen!
- Võ vô sân lượm gói kẹo cho Minh mà!
- Võ đừng có đến gần. Dì Tám không cho.
Võ lượm gói kẹo lên, nói giọng giận dỗi:
- Minh không cho thì có. Dì Tám hiền khô, đâu có bao giờ cấm Võ vô nhà. Hồi trước Võ ở đây, chưa có Minh về chơi, Võ được dì Tám kêu qua cho kẹo cau, cho mận hoài...
- Nhưng mà có Minh ở đây, Võ không được vô.
Võ bước đến gần cửa sổ, đến gần "nàng công chúa Minh đài đệ nhất đời" ; Võ dúi bịch kẹo vào tay Minh:
- Kẹo nè Minh! Võ đi về thôi.
Bao nhiêu lời kể lể Võ dành để nói với con Minh chư tiêu tan hết. Võ giận con Minh ghê gớm. Đời sao lại có con bé kiêu hãnh lạ lùng. Uổng công Võ mấy ngày nay bỏ đi chọi gà vơi thằng Lang, bỏ đi câu cá với thằng Chí, đứng ngoài cổng rào thổi khẩu cầm cho nó nghe. Uổng công Võ về nhà mấy ngày nay tập bài "Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn..." mà... không được. Võ có ý nghĩ mình là một tên Trương Chi đáng ghét và vô duyên. Nhất định không thèm chơi với con Minh nữa. Võ phải đi tìm bọn thằng Lang để chơi cho hết buổi trưa nay.
Nhưng một ý nghĩ hiện ra trong đầu. Võ không đi tìm thằng Lang mà đi vòng ra ngã sau nhà dì Tám. Đó là lối đi quen thuộc mỗi lần Võ đi theo giỏ chợ của dì Tám. Con Minh tưởng Võ chưa vào nhà bao giờ sao? Võ phải trêu nó một lần cho bỏ ghét, rồi không chơi với nó nữa.
Võ vào cửa sau rất dễ dàng, rón rén đi lên nhà trên. Định sẽ hù con Minh một cái cho nó giật mình, hay sẽ "lêu lêu" nó rồi bỏ chạy. Nhưng Võ nghe thoáng tiếng khóc rấm rức. A, cái con bé này mới lạ làm sao! Võ đứng dừng lại ở ngưỡng cửa. Không gian trong nhà thật tĩnh mịch nhưng cơ hồ một luồng gió nào rất lạnh thổi đến vây kín toàn thân Võ.
Rõ ràng con Minh ngồi hiền lành như một nàng công chúa, trên chiếc ghế nệm kê gần cửa sổ. Rõ ràng con Minh vẫn mặc chiếc áo màu xanh lơ như mọi ngày. Nhưng chừ thì, Võ thấy rồi, thấy một điều nữa rồi! Đó là hai ống quần lủng lẳng từ trên hai đầu gối của con bé, buông thòng xuống. Đó chính là cơn gió lạnh vây kín Võ. Đó chính là nguyên nhân làm con bé khóc. Đó chính là lý do tại sao con bé chỉ ngồi ở cửa sổ suốt ngày như một "nàng công chúa đài đệ", lắng nghe "tên Trương Chi đáng ghét" đứng thổi khẩu cầm ở ngoài cổng rào.
Con Minh hoảng hốt khi thấy Võ sau lưng. Nó khóc to hơn làm Võ cuống cuồng lên. Hết cách để dỗ nó rồi! Phải biện hộ thế nào về cái tội nghịch ngợm của Võ? Võ hấp tấp nói:
- Minh! Minh! Võ vô nhà để... để... thổi cho Minh nghe bài "Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn"! Võ... xin lỗi Minh...
Con Minh sáng mắt lên khi nghe đến đó. Nhưng nó vẫn cứ khóc. Võ rút cây khẩu cầm ra, nói vội:
- Võ tập được bài đó rồi, nhưng dở lắm tại vì bài "mi nơ". Minh phải nói cho Võ biết tại sao Minh thích bài đó?
Con Minh nghẹn ngào:
- Tại vì... tại vì hồi ở quê Minh, ba Minh hay đàn bài đó, má Minh hay hát bài đó.
- Ba má của Minh?
- Chết hết rồi! Võ đừng có hỏi. Cả Minh nữa nè! Minh cũng vô phước như vậy nè!
Võ đứng như trời trồng. Biết làm gì cho con Minh? Võ không biết an ủi. Võ cũng không biết nói những lời khéo léo để làm đẹp lòng người. Tự nhiên Võ đưa cây khẩu cầm lên môi. Võ thổi đại bản nhạc mà con Minh ưa thích. Tiếng khẩu cầm làm con Minh ngừng khóc. Nó chăm chỉ lắng nghe. Chắc trong lòng con bé đang khen thầm "Hay quá!" Chính Võ cũng nghe hay quá! Mặc dầu bài nhạc "mi nơ" đã được Võ biến chế thành "ma giơ" để thổi khẩu cầm.
Võ thổi hết đoạn đầu, và bỗng ngưng lại. Võ muốn nói với con Minh rằng chiều nay Võ phải theo anh Bản vào lại Saigon. Nhưng bỗng nghe một nỗi nuối tiếc tràn đến đầy lòng. Ở trong Saigon quả có những người thân mến không kém chi ngoài này – từ anh Bản, người anh bà con hiền hậu, đến bọn trẻ xóm giềng nghịch ngợm, đến cô dạy Vạn Vật lớp tám dịu dàng của Võ. Võ ham chuộng sự mới lạ, nên Võ thích đi xa. Rồi một ngày nào đó Võ sẽ lớn, Võ sẽ được tung hoành như ý muốn. Nhưng có lẽ chỉ lúc này đây Võ mới thấy tiếc rẻ khung cảnh quen thân của xóm nhỏ – nơi có bà ngoại mỗi ngày một già yếu, nơi có bọn thằng Lang thằng Chí còn nghịch ngợm quá chừng, nơi có con bé Minh đã hiện diện chiếm nhiều khoảng trống trong tình cảm của Võ. Con Minh đã hiện diện, như một thảm cảnh. Võ nghĩ nếu có một ngày nào thảm cảnh xảy đến tương tự cho Võ, cho bà ngoại, hay cho anh Bản... Biết đâu được... Võ thấy mình lớn lên trong tư tưởng ấy.
Con bé Minh đã gạt khô nước mắt, nhìn Võ thúc giục:
- Kìa! Võ! Thổi tiếp đi! Tới khúc vui rồi đó!
Tự nhiên Võ nghe hai mắt cay cay. Võ sửa soạn đưa cây khẩu cầm lên môi, gật đầu:
- Ừ, để Võ thổi tiếp. Tới khúc "ma giơ" rồi Minh ạ!
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 211, ra ngày 15-10-1973)
Minh reo lên:
- Toàn những bài Minh thích, vậy mà không thổi được. Khẩu cầm kỳ quá ha!
Võ trăn trở cây khẩu cầm trong tay:
- Tại... cây này là khẩu cầm "lô can", thổi được mỗi "đô ma giơ". Chứ người ta có bán những loại khẩu cầm "hách" lắm, thổi được đủ thứ.
- Vậy chừng nào "ấy" mua cây khẩu cầm "hách"?
Võ nhíu mày:
- Mắc lắm, Võ còn nhỏ, làm gì có tiền.
Bây giờ đến lượt con bé hơi mỉm cười vì biết được tên Võ, nó gật gù:
- Ừ ha! Còn nhỏ đâu đã làm gì ra tiền.
Đôi môi nó chúm chím cười thật dễ thương. Võ cất cây khẩu cầm vào túi, nói:
- Minh nè, bữa nào Võ sẽ tập thổi bài "Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn" rồi Võ thổi cho Minh nghe.
- Khó không?
- Võ sẽ gắng. Khi nào Võ lớn, đi làm có tiền, Võ sẽ mua cây khẩu cầm thiệt "hách", thổi đủ các bài.
- Thích há! Võ học ở trong Saigon hở?
- Sao Minh biết?
- Minh còn biết cả cái anh đi với Võ nữa. Minh thấy Võ ngay từ hôm Võ xách va li đi ngang đây.
Võ tự hỏi hóa ra con bé này ngày nào cũng ngồi sau cửa sổ nhìn ra sân hay sao? Thế thì nhàn hạ nhất rồi! Chắc nó ở nơi khác về đây nghỉ hè? Có lý lắm! Và Võ nghĩ đến một nơi nào đó, quê hương của Minh – nơi có con sông đào xinh xắn, có nước tuôn trên đồng vuông vắn...
3. Võ ngại ngần khi sắp đến trước nhà con Minh. Chắc phải tặng cho nó nguyên cả gói kẹo, con bé này hay nhè lắm. Võ vẫn chưa thổi được bài nhạc mà nó ưa thích – và Võ nghĩ rằng chẳng bao giờ Võ thổi được bài nhạc "mi nơ" ấy. Thế mà Võ sắp rời xa quê nhà nữa rồi. Anh Bản đã xin được máy bay và chiều nay Võ sẽ theo anh về Saigon. Võ nghe một thứ cảm xúc nào dâng lên nhè nhẹ trong lòng – không biết có phải gọi đó là "nỗi buồn" hay không?
Con Minh vẫn ngồi sau khung cửa sổ, trông giống như một bức ảnh bán thân. Nó nhoẻn miệng cười khi thấy Võ từ xa. Võ giơ cao bịch kẹo lên:
- Cho Minh nè!
- Thích quá! Ở đâu vậy?
- Mua. Minh ra mà lấy.
Con Minh lắc đầu:
- Võ quăng vô đi!
Võ nhắm cửa sổ ném bịch kẹo vào. Nhưng bịch kẹo rơi ra ngoài. Võ kêu trời. Con Minh tiu nghỉu:
- Làm sao Minh lấy?
- Minh ra mà lấy.
- Không được. Dì Tám không cho.
Võ đâm ra bực bội. Con bé này "đài đệ" quá đi – nói theo kiểu bà ngoại – nó làm như Dì Tám là hung thần hay bà chằng lửa vậy. Võ nghĩ thế rồi vòng tay mở cổng vào. Con Minh la lên:
- Ấy! Ấy! Võ đừng có vô nhà nghen!
- Võ vô sân lượm gói kẹo cho Minh mà!
- Võ đừng có đến gần. Dì Tám không cho.
Võ lượm gói kẹo lên, nói giọng giận dỗi:
- Minh không cho thì có. Dì Tám hiền khô, đâu có bao giờ cấm Võ vô nhà. Hồi trước Võ ở đây, chưa có Minh về chơi, Võ được dì Tám kêu qua cho kẹo cau, cho mận hoài...
- Nhưng mà có Minh ở đây, Võ không được vô.
Võ bước đến gần cửa sổ, đến gần "nàng công chúa Minh đài đệ nhất đời" ; Võ dúi bịch kẹo vào tay Minh:
- Kẹo nè Minh! Võ đi về thôi.
Bao nhiêu lời kể lể Võ dành để nói với con Minh chư tiêu tan hết. Võ giận con Minh ghê gớm. Đời sao lại có con bé kiêu hãnh lạ lùng. Uổng công Võ mấy ngày nay bỏ đi chọi gà vơi thằng Lang, bỏ đi câu cá với thằng Chí, đứng ngoài cổng rào thổi khẩu cầm cho nó nghe. Uổng công Võ về nhà mấy ngày nay tập bài "Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn..." mà... không được. Võ có ý nghĩ mình là một tên Trương Chi đáng ghét và vô duyên. Nhất định không thèm chơi với con Minh nữa. Võ phải đi tìm bọn thằng Lang để chơi cho hết buổi trưa nay.
Nhưng một ý nghĩ hiện ra trong đầu. Võ không đi tìm thằng Lang mà đi vòng ra ngã sau nhà dì Tám. Đó là lối đi quen thuộc mỗi lần Võ đi theo giỏ chợ của dì Tám. Con Minh tưởng Võ chưa vào nhà bao giờ sao? Võ phải trêu nó một lần cho bỏ ghét, rồi không chơi với nó nữa.
Võ vào cửa sau rất dễ dàng, rón rén đi lên nhà trên. Định sẽ hù con Minh một cái cho nó giật mình, hay sẽ "lêu lêu" nó rồi bỏ chạy. Nhưng Võ nghe thoáng tiếng khóc rấm rức. A, cái con bé này mới lạ làm sao! Võ đứng dừng lại ở ngưỡng cửa. Không gian trong nhà thật tĩnh mịch nhưng cơ hồ một luồng gió nào rất lạnh thổi đến vây kín toàn thân Võ.
Rõ ràng con Minh ngồi hiền lành như một nàng công chúa, trên chiếc ghế nệm kê gần cửa sổ. Rõ ràng con Minh vẫn mặc chiếc áo màu xanh lơ như mọi ngày. Nhưng chừ thì, Võ thấy rồi, thấy một điều nữa rồi! Đó là hai ống quần lủng lẳng từ trên hai đầu gối của con bé, buông thòng xuống. Đó chính là cơn gió lạnh vây kín Võ. Đó chính là nguyên nhân làm con bé khóc. Đó chính là lý do tại sao con bé chỉ ngồi ở cửa sổ suốt ngày như một "nàng công chúa đài đệ", lắng nghe "tên Trương Chi đáng ghét" đứng thổi khẩu cầm ở ngoài cổng rào.
Con Minh hoảng hốt khi thấy Võ sau lưng. Nó khóc to hơn làm Võ cuống cuồng lên. Hết cách để dỗ nó rồi! Phải biện hộ thế nào về cái tội nghịch ngợm của Võ? Võ hấp tấp nói:
- Minh! Minh! Võ vô nhà để... để... thổi cho Minh nghe bài "Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn"! Võ... xin lỗi Minh...
Con Minh sáng mắt lên khi nghe đến đó. Nhưng nó vẫn cứ khóc. Võ rút cây khẩu cầm ra, nói vội:
- Võ tập được bài đó rồi, nhưng dở lắm tại vì bài "mi nơ". Minh phải nói cho Võ biết tại sao Minh thích bài đó?
Con Minh nghẹn ngào:
- Tại vì... tại vì hồi ở quê Minh, ba Minh hay đàn bài đó, má Minh hay hát bài đó.
- Ba má của Minh?
- Chết hết rồi! Võ đừng có hỏi. Cả Minh nữa nè! Minh cũng vô phước như vậy nè!
Võ đứng như trời trồng. Biết làm gì cho con Minh? Võ không biết an ủi. Võ cũng không biết nói những lời khéo léo để làm đẹp lòng người. Tự nhiên Võ đưa cây khẩu cầm lên môi. Võ thổi đại bản nhạc mà con Minh ưa thích. Tiếng khẩu cầm làm con Minh ngừng khóc. Nó chăm chỉ lắng nghe. Chắc trong lòng con bé đang khen thầm "Hay quá!" Chính Võ cũng nghe hay quá! Mặc dầu bài nhạc "mi nơ" đã được Võ biến chế thành "ma giơ" để thổi khẩu cầm.

Con bé Minh đã gạt khô nước mắt, nhìn Võ thúc giục:
- Kìa! Võ! Thổi tiếp đi! Tới khúc vui rồi đó!
Tự nhiên Võ nghe hai mắt cay cay. Võ sửa soạn đưa cây khẩu cầm lên môi, gật đầu:
- Ừ, để Võ thổi tiếp. Tới khúc "ma giơ" rồi Minh ạ!
NGUYỄN THỊ MỸ THANH
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 211, ra ngày 15-10-1973)
Thứ Hai, 14 tháng 10, 2019
Khúc Tình Huyền Sử
Nước và đất quyện phù sa theo sóng
Xui loài rau muống gặp gỡ lục bình
Tình nghèo ấp ủ mấy mùa vui sống
Cho bờ rau xanh xanh cả trời xinh
Trên đó tháng ngày như dòng nước chảy
Nước chảy hững hờ vẫn mãi luân lưu
Nước đẹp tợ màu loài bông cỏ dại
Suốt trời mưa buồn vướng đọng ưu tư
Độc sầu nhìn phương trời mang mây trắng
Dấp dáng miệt mài âu yếm bay sang
Cho trời thu buồn nắng vàng bến vắng
Chẳng ai đưa đò, chẳng kẻ quá giang
Không hẹn không hò sao trời mưa xuống
Giọt lạnh, giọt buồn, giọt đục, giọt trong
Trang điểm mắt môi của loài rau muống
Đưa tiễn lục bình theo nước giữa dòng
Giữa buổi chiều mưa trời rưng nước mắt
Nuôi nỗi nhớ nhung trong chuyện chia xa
Lời ai nguyện cầu mùa thu se sắt
Nuôi con cho chàng giữ nước giữ nhà
Lục bình xuôi theo mùa thu sóng nước
Trôi miết, xa bờ rau dại yêu thương
Tháng bảy, chim đen bắt đau ô thước
Riêng hai loài rau cách mấy trời buồn
Bởi chí nam nhi ví bằng sóng biển
Mọi sự thường tình xem tựa hồng mao
Nào ngờ lần đi không lời vĩnh biệt
Mà ngày trở về thì chẳng thấy đâu?
Còn lại bên bờ màu xanh rau dại
Tiếng ai đêm thầm khóc nỉ khóc non
Sầu vọng chinh phu, đợi hoài không thấy
Thân rau muống chừng ngày tháng héo von
Trời vẫn hững hờ – vô tình nước chảy
Cái cò cái vạc gánh gạo sang sông
Xin gửi đôi lời của loài rau muống
Rằng nàng vẫn đưa con giữa võng buồn!...
(cho duyên nghèo ba mẹ
bến sông đồng xa xưa)
HẢI YẾN LINH THY
(bút nhóm Tình Biển)
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 136, ra ngày 1-9-1970)
Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2019
Hòn Vọng Phu
gục đầu vai tượng đá
nước mắt Hòn Vọng Phu
nhỏ dài trên vai chết
bóng tình quân xa mù
ngựa chàng muôn dặm ruổi
vó câu dồn dập xa
bụi tung trời viễn xứ
sầu ải nhạn chan hòa
thiếp ôm con hoài vọng
thuyền đỗ bến nhớ thương
nhưng bóng chim tăm cá
mờ mịt nẻo sa trường
gom vào lòng tuế nguyệt
chai đá đỉnh núi buồn
nơi đầu gành cuối gió
chàng có biết hay không?
NHƯ UYÊN THỦY
(đêm quê hương - Gò Công)
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 117, ra ngày 1-11-1969)
Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2019
Chinh Phụ
Hút dấu chim bay một hướng trời
Bao ngày vời vợi ngóng trông thôi
Tóc bay vừa nhạt hương trong gió
Cho cánh môi son ngậm nét cười
Theo vó câu đi vết ngựa hồng
Ba mùa vời vợi sắp sang đông
Áo xiêm chưa hết mầu thương nhớ
Sầu chở chuyên trên những phím đồng
Thắp ngọn nến hồng men hương cũ
Nhỏ dòng nước mắt khóc chinh phu
Dâng trong sắc khói bay mờ mịt
Ngun ngút hơi say lửa oán thù
Người đi biết mấy mùa chinh chiến
Máu đã cạn dần theo vết đau.
THỤY ĐỖ
(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 12, ra ngày 20-10-1971)
Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2019
Bỏ Lại Đàng Sau Những Ngậm Ngùi
Gởi anh tôi, người muôn năm cũ...
Lang thang phố cũ
Mỏi gót tìm anh
Chiều hoang rũ rượi
Đường xưa một mình
Anh cuối chân mây
Sao cùng chung lối?
Em tận cuối trời
Chênh vênh, mù tối
Anh : mây tan tác
Em : bát ngát sầu
Đơn côi, mòn mỏi
Tìm anh chốn nào?
Chung một mái nhà
Rộn tiếng reo ca
Khung trời thơ bé
Gió trăng hiền hòa
Trần gian nghiệt ngã
Rách nát mùa xuân
Trăng tà đơn bóng
Ngàn sao mịt mùng
Anh cánh buồm xa
Ngàn năm dong ruổi
Em phương trời xưa
Lệ nhòa vây phủ
Gác buồn lặng lẽ
Thời gian chôn vùi
Ngàn mây phiêu lãng
Bỏ lại đàng sau những ngậm ngùi!
Trần Thị Phương Lan
(Bút nhóm Hoa Nắng)
Thứ Năm, 10 tháng 10, 2019
Ngày Mưa Phố Huế
Trời làm mưa mênh mang
Mưa phương nớ mưa sang
Giăng giăng màu trắng xóa
Che mắt em mơ màng
Ngày chìm trong mây mưa
Đếm biết mấy cho vừa
Hạt sầu bay xa tít
Ngồi đây giọt gianh thưa
Buồn mưa buồn chi hơn
Tiếc nuối pha dỗi hờn
Ngày sao chừ đi chậm
Mưa mặc người mưa tuôn!
Trời còn mưa miên man
Rơi tí tách trên ngàn
Lê thê buồn không dứt
Mưa ni, khi mô tan?
NGÂN TUYẾN
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 210, ra ngày 1-10-1973)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)