Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2016

Con Diều Đẹp Nhất


Hoàng bực tức quăng mạnh cây bút nguyên tử vì bài toán giải hoài không ra. Hoàng ngồi thừ ra, nghĩ ngợi. Hoàng nhớ lại vụ dán bích chương cổ động cho báo Thiếu Nhi ban sáng và càng thêm tức lũ trẻ ranh. Công trình Hoàng lặn lội lên tận tòa soạn lãnh một xấp đủ màu bích chương hôm chủ nhật vừa qua. Lại hì hục khuấy bột nên hồ cả buổi để đem đi dán. Vừa thấy mấy bức tường ưng ý, Hoàng bày “đồ nghề” ra, thùng hồ, và cái sơ dừa để quét hồ… Mấy đứa nhỏ tò mò bu quanh chỉ trỏ và cười khúc khích… Hoàng dán thật nổi, cứ một tờ màu xanh lá cây, rồi đến tờ màu đỏ rồi màu danh dương, đến màu vàng… Cả một bức tường rực rỡ hẳn lên. Một vài gốc me lớn cũng được Hoàng chiếu cố… Hoàng chọn những ngõ hẻm nhiều “thiếu nhi” để dán… Phương châm của Hoàng là phổ biến tận hang cùng ngõ hẻm.

- Ê! Nhỏ kia mày dán cái truyền đơn gì đó?

- Xin lỗi bác, cháu dán bích chương cổ động cho báo Thiếu Nhi. Bác cho phép cháu dán chừng bốn tấm là sạch cái vách cây đã cũ này.

Một bà đứng tuổi rõ chuyện, thông cảm bỏ vào nhà. Và Hoàng rút kinh nghiệm phải xã giao với chủ nhà trước khi dán. Lũ trẻ kéo theo Hoàng như cái đuôi dài.

Có đứa năn nỉ:

- Anh ơi! Cho tui vài tấm xếp máy bay đi anh.

Hoàng cười hứa hẹn:

- Ừ! Để coi dư mới được chớ!

Nhưng công việc không trôi chảy như Hoàng tưởng lầm. Hoàng chỉ dán gần phân nửa số bích chương thì có rắc rối xảy ra. Một lũ trẻ dơ dáng khác ở đâu xuất hiện và gây sự. Một tên nhỏ nhất lại tiến ra hất hàm, giọng hách dịch:

- Ê! Thằng kia, ai cho mày dán tùm lum ở xóm tao hả?

Hoàng sửng sốt không biết phải trả lời sao trước đối thủ chỉ lớn bằng thằng Ngọc, em Hoàng.

- Ê! Tao hỏi sao mày khi dễ không trả lời? Kênh hả?

Nó đá dứ thêm vào lon hồ của Hoàng, đồng bọn nó cười rộ lên thích thú. Hoàng thoáng nghe tiếng chúng chửi thề và những lời xúi giục:

- Đánh cho nó một trận!

Hoàng chỉ muốn giải thích công việc trong sạch và vô vụ lợi của mình nhưng tụi kia không nghe, chỉ muốn đánh nhau.

Hoàng nhịn nhục trả lời:

- Tôi đi dán bích chương giùm cho tòa soạn Thiếu Nhi mà!

Các anh – Hoàng đã phải chịu lép xưng như vậy – xem nè, bích chương đẹp chưa, báo Thiếu Nhi các anh cứ mua xem hay lắm.

- Thiếu Nhi là cái quái gì? Bao nhiêu một tờ?

Chúng nhao nhao hỏi tiếp.

- Cứ mỗi tuần ra một tờ, bán năm chục đồng thôi.

Chúng lại chửi thề, bài bác:

- Mắc quá! Để tụi tao mua truyện “Chú Thoàng” “Charlot” “Hiệp sĩ”… mười tì một cuốn coi còn rẻ mà sướng ác.

- Các anh đừng coi các truyện tai hại đó nữa, không có ích gì cho sự học các anh đâu.

- À! Cái thằng này dám lên mặt dạy đời. Mà mày định đánh trống lảng sao, tụi tao hỏi mày rằng ai cho phép mày đi dán trong xóm tụi tao?

To chuyện rồi đây, thật: “cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”.

Đến đó Hoàng không nhịn nhục được nữa, Hoàng sừng sộ:

- Không ai cho phép cả, thích thì tôi cứ làm.

- À thằng này ngon, đánh nó chơi anh em.

Chúng hăm dọa rồi lùi xa thủ thế nhưng chưa có đứa nào dám xung phong để tấn công cả.

Hoàng bình tĩnh buông xấp bích chương xuống đất và liếc mắt nhìn quanh, tìm chỗ thoát.

- Một, hai, ba…, bảy đứa tất cả – Hoàng đếm nhẩm.

Ba đứa thấp hơn Hoàng một cái đầu và bốn đứa vào trạc em Hoàng (thằng Ngọc). Chúng vung tay múa chân y như trong phim đấm đá Hồng Kông mà chúng xem để cướp tinh thần của Hoàng. Có đưa còn vung chân đá gió ngoài xa nữa chứ. Lũ trẻ đi theo Hoàng lúc trước không biết bênh phe nào, thấy có trò vui thì đứng giạt ra, vỗ tay reo hò:

- Đánh đi! Đánh đại đi, “anh em” hơi sức nào mà nhịn.

Hoàng hơi cau mày, mỉm cười nghĩ “chưa chắc mình đã sợ”. Tụi kia ỷ đông, đứng gườm một hồi thì nhào vô. Rõ ràng chúng “đá gió” mà lỵ. Hoàng xoay “tankan” tránh thật dễ. Lũ du côn thoáng ngạc nhiên. Chúng nó biết đâu, Hoàng chính là một môn sinh Hiệp Khí Đạo đã được sáu tháng rồi. Tuy chưa tài ba gì nhưng cũng đủ sức tự vệ, có lẽ cũng đủ để đối phó với lũ nhãi ranh này.

Tụi nhãi vài đứa châu đầu lại, bàn cách. À, chúng định vài đứa xông vào ôm Hoàng, để mấy thằng còn lại đánh hôi.

Hoàng hất hàm:

- Sao, đánh sức một hay đánh hùa?

Tụi kia trợn mắt, văng tục:

- Đánh “hội đồng” nó đi anh em, giựt giấy về chơi.

Hoàng lùi lại, chân chặn lên xấp bích chương và hơi lo, sợ chúng xé phá.

Trong phút chốc, hai đứa nhảy vào chụp hai tay Hoàng. Vì không rõ sức của chúng, Hoàng dùng một đòn “Kokyu” hất hai đứa té lăn. Chưa ngán, chúng xông vào tiếp. Và chẳng kịp suy nghĩ, Hoàng dùng mấy đòn “shino-nagé”, mở khóa tay và bẻ quặt một tên. Tên này “oái” lên và vùng vẫy. Hoàng phải vội buông để quật một cú “Koshi-nagé” bởi một đứa to nhất đám ôm ngang lưng. Địch thủ ngã xuống mông đau điếng, đó là trình độ Hoàng còn kém đấy, chứ không… có đường gãy xương và nằm luôn. Tụi còn lại bừng giận, xông tiếp vào đấm, đá… loạn cả lên. Hoàng cũng trúng vài cú vào bụng, vào đít.

Thằng nhỏ phách lối hồi nãy tìm đâu được khúc củi, thẳng tay giáng xuống Hoàng. Hoàng lanh mắt né qua một bước, chụp tay, áp dụng một đòn “Koté-gashi”, bẻ cứng tay thằng nhỏ. Nhanh nhẹn Hoàng xoay tiếp một vòng và đè thằng nhỏ nằm xuống đất.

Thằng nhỏ đau khớp xương quá khóc òa lên:

- Ui da! Đau quá, buông ra không mậy.

- Ừ! Tao buông ra, mà tụi bây có chịu “huề” chưa?

Tụi kia ngần ngừ và tính toán. Nhắm không ăn hiếp được Hoàng chúng bằng lòng giảng hòa. Mấy miếng “võ mèo quào” học lóm ở xi nê làm chúng thua cay đắng.

Lũ trẻ khán giả cười khoái chí trước sự anh dũng của Hoàng. Chúng bu quanh chàng hiệp sĩ bất đắc dĩ và hoan nghênh bằng ánh mắt, bằng nụ cười… thật rõ rệt.

Hàng đã buông tay địch thủ ra. Thằng nhỏ vừa quẹt nước mắt, phủi đất cát bám vì lúc nãy áp xuống đường, vừa xoay xoay cánh tay trái gân một cách khó chịu. Mấy đứa té hồi nãy cũng hậm hực nhìn Hoàng với ý không phục.

Đang giằng co thì có người lớn ở gần đó đi tới. Họ thấy đánh nhau thì rầy rà lũ nhãi. Sao lại đi ăn hiếp Hoàng, một trẻ cô thế. Thôi! Bạn bè mà, hòa đi rồi ai về nhà nấy.

Hoàng cũng không thể tiếp tục công việc được, xách thùng hồ và bích chương ra về. Đám đông ùa reo và giải tán.

Nếu Hoàng còn ở lại, chắc sẽ mục kích một lớp tuồng trả thù thật hấp dẫn. Tụi thua trận ức lắm, chúng đi tìm những bích chương mà Hoàng dán thật kỹ càng để bóc ra, xé đi. Hay mang đất ướt mà trây trét vào những tờ giấy xanh đỏ vô tội. Chẳng có người nào đứng ra mà bảo vệ bích chương cả, than ôi!

Buổi chiều, Hoàng lại đi tìm những mục tiêu mới để dán. Ngang qua đầu hẻm hồi sáng. Thì… Ô kìa! Sao lại rách tả tơi thế này. Hoàng lo lắng đi rảo khắp mọi chỗ dán ban sáng, khỏi nói cũng biết tình trạng thảm hại ra làm sao. Vì một đàng chỉ một người đi dán. Một đàng cả bọn người đi xé.

Hoàng thất vọng ra về, chẳng thiết gì công việc cả. Thùng đựng hồ cho vào một xó với sơ dừa, bích chương quăng đại vào gầm bàn học.

Nhớ đến bích chương, Hoàng vội ngồi xuống xem xét ra sao. E chó hay mèo nó cắn phá chăng? Ủa, biến đâu mất cả rồi. Thủ phạm kỳ này là ai? Chó Lu, Mèo Muớp? Hay cu Ngọc, con Trang?

- Ồ! Thôi đúng rồi, đích thị cu Ngọc, hôm qua mình thấy nó ngồi tỉ mỉ dán cái gì xanh xanh đỏ đỏ… đây mà!

Hoàng hoan hỉ khi tìm ra lời giải và chợt bài toán hóc búa cũng bật mở then chốt.

Làm xong bài toán, Hoàng đi tìm thủ phạm.

- Ngọc ơi! Ngọc đâu, lại anh biểu coi. Mẹ ơi! Thằng Ngọc đâu rồi mẹ?

Mẹ Hoàng lui cui dưới bếp và bà đáp rằng: “không biết”.

Con Trang đang đánh chuyền với nhỏ Lệ hang xóm, mách lẻo cho Hoàng:

- Thằng Ngọc em thấy nó leo lên gác đó anh.

Hoàng leo vội lên gác. Quái, sao không có, và cái cửa sổ sao lại mở toang ra thế này? Hay cu cậu leo lên nóc nhà. Hoàng cũng thử thò đầu ra cửa sổ, vẫn không thấy gì cả.

Leo ra mái nhà bên cạnh, Hoàng bắt gặp thằng em nghịch ngợm đang cẩn thận giật giật ống chỉ trong tay. Nó thả diều. Và diều làm bằng bích chương “Thiếu Nhi”. Chỉ có lẽ của mẹ.

- Ngọc! Quá lắm rồi! Leo xuống, từ từ, xuống đây anh biểu.

Thằng bé lấm lét quấn chỉ lại, mang con diều và men lần xuống.

- Ai cho em leo nóc nhà thả diều? Mẹ đánh đòn cho xem!

Thằng Ngọc xanh mặt không đáp được. Hoàng chất vấn tiếp:

- Ai cho em lấy bích chương của anh dán diều? Và chỉ mua ở đâu hả? Còn xấp giấy còn lại nữa?

- Hu hu! Em không có lấy, chị Trang lấy giấy màu bao tập bao sách, em xin có một tờ hà. Chỉ em lấy của mẹ mà.

- Lạ chưa! Ai đánh mà khóc? Ối trời ơi! Bích chương của người ta để đó mà dám lấy. Đứa thì làm giấy bao, đứa thì làm đồ chơi. Mẹ ơi! Mẹ lên mà coi, tụi quỷ này phá quá xá.

Mẹ nghe Hoàng la lớn cũng phải chạy lên. Bà ôn tồn khuyên:

- Thôi con! Tụi nó lỡ rồi, đừng mét với ba, tội nghiệp. Tại con không chịu cất đàng hoàng, cứ quăng bừa ra đó, tụi nó tưởng giấy bỏ.

Con Trang đã ngừng chơi, cùng Ngọc lại xin lỗi anh:

- Xin lỗi anh! Tụi em không biết, tụi em không dám lấy giấy của anh nữa, anh tha cho.

Hoàng ôm đầu:

- Còn nữa đâu mà lấy thêm.

Con Trang vọt miệng:

- Còn mà, còn tới mười mấy tờ lận, em xài chưa hết.

Hoàng cũng chợt nhớ bữa trước vì lười không chịu đi mua giấy dầu về cho em bao tập, con Trang mới nảy ra sáng kiến độc đáo như vậy. Con Trang thủ thỉ với Hoàng:

- Anh ơi! Em bao tập bằng bích chương thật đẹp, tụi bạn cứ tranh nhau mà mượn xem những giòng chữ và hỏi thăm để xin hoài. Chúng cũng thích bao bằng “bích chương” lắm. Có đứa còn tìm báo Thiếu Nhi mà đọc nữa. Mà có đứa chưa coi từ số một muốn mượn bào của anh em mình đó, anh bằng lòng không?

Hoàng bỗng ngạc nhiên, vui vẻ đáp ngay:

- Vậy hả? Em cứ cho bạn mượn và nhớ bảo nó xem và giữ hộ báo cho cẩn thận nghe!

- Hoan hô anh Hoàng! Bao tập bằng “bích chương” thật số dách.

Con Trang, thằng Ngọc sung sướng vỗ tay. Mẹ Hoàng yên tâm đi xuống bếp tiếp tục nấu ăn. Bây giờ Hoàng mới rảnh mà nhìn đến con diều của thằng Ngọc. Con diều trông méo mó và hơi nhỏ, lèo lại cột sai, chỉ may thì yếu, chả trách thằng Ngọc cứ loay hoay cả buổi mà diều vẫn không lên.

Đã trải qua thời kỳ tuổi thơ, nên Hoàng thông cảm với em lắm. Hoàng biểu con Trang đưa xấp bích chương còn sót lại.

Hoàng chọn một tờ thật ngay và lấy dao rọc để làm diều. Thằng Ngọc đưa tre cho anh vót cung và sườn. Con diều màu xanh chiếm hết bốn phần năm tờ giấy, vuông vức và xinh xắn.

Hoàng cắt hai cái tai hình tam giác màu đỏ hai bên, hai cái đuôi cùng màu, cũng thật nhỏ và lơ thơ. Đuôi chính phải thật to và dài để giữ thăng bằng cho diều thì màu vàng. Thùng hồ ngày nào lại được sung công. Không đầy tiếng đồng hồ thì diều mới đã làm xong. Thằng Ngọc hăng hái nhận năm chục của anh đi mua nhợ về để cột lèo.

Và một lát sau, cả ba anh em cùng ra lan can để thả diều. Có cả nhỏ Lệ bạn con Trang nữa. Bây giờ không cần leo tít nóc nhà nguy hiểm diều vẫn bay. Hoàng chỉ cho em cách thả, giật nhè nhẹ buông chỉ, rồi giật mạnh, rối thả thêm chỉ…

Diều no gió lên mau. Cu Ngọc chỉ việc toét miệng ra mà ngồi đó giữ chặt ống lon. Niềm vui của anh em Hoàng cũng lên cao, lâng lâng như cánh diều tuổi thơ trên ấy.

Con diều đúng cách và to lớn của Ngọc là đẹp nhất. Lại có chữ Thiếu Nhi đỏ rực nữa chứ. Chưa bao giờ lũ trẻ có một con diều to và tuyệt như vậy, dù cho chúng làm bằng giấy bóng đủ màu và tốn tiền. Chúng rất ngạc nhiên theo dõi con diều lạ và nhất là khi biết diều đó của Ngọc. Chúng đến nhà đòi cu Ngọc phải cuốn diều xuống cho chúng xem Ngọc Viết chữ gì mà trông hay quá. Ngọc làm le chiều ý chúng. Chúng lẩm bẩm đọc:

- Thiếu Nhi ra ngày chủ nhật hằng tuần…

Cha mẹ thương yêu con, nên cho con đọc Thiếu Nhi.

Tuần báo giải trí và giáo dục.

Chủ nhiệm Nguyễn Hùng Trương v.v…

Ôi, thôi! Tao biết rồi, Thiếu Nhi đọc hay lắm, tao ghiền còn hơn xi nê. Mà Ngọc, mày làm cách nào có giấy này làm diều?

Thằng Ngọc hãnh diện đáp:

- Của anh Hoàng tao xin đó, ảnh làm diều cho tao luôn.

- Xin ở đâu vậy, còn dư không cho tụi tao bớt?

- Để làm gì?

- Làm diều y như mày vậy chớ chi.

- Cha! Bộ bích chương này xin về cho tụi bây làm diều sao?

Thằng Ngọc đáp mà không suy nghĩ, nó và con Trang cũng dùng bích chương vào những việc ác ôn hơn. Chẳng hạn, nó dùng để xếp thuyền thả trôi trời mưa, và xếp vớ vẩn đủ thứ…

Hoàng mỉm cười và định ngày mai sẽ đến tòa soạn xin một số bích chương khác để dán quanh xóm mình. Chắc rằng tụi trẻ hiểu biết quanh đây sẽ để yên và tán thành. Hoàng sẽ dụ tụi trẻ xem Thiếu Nhi bằng cách cho chúng vài tờ làm diều và cho mượn báo để xem nữa. Thật là tiện và lợi, tuy phải chịu hy sinh vài tờ bích chương.

Bên ngoài cu Ngọc lại thả diều như Hoàng đã chỉ cách lúc nãy. Con diều lạ mắt lên cao. Lũ trẻ ba hoa rằng vẫn còn đọc được những hàng chữ viết trên đó. Trong tư tưởng của Hoàng, của Ngọc và ý nghĩ của lũ trẻ, con diều bằng “bích chương” Thiếu Nhi đẹp, đẹp nhất… và tươi mát như tuổi thơ ngây…


THÁI LYNH LĂNG    


(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 59, ra ngày 8-10-1972)

Bìa của Vi Vi : Hoa trắng

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2016

Trời Hành


Suốt ngày hôm nay, trời nắng ráo, không nóng, thời tiết thực là dễ chịu. Thế mà máy phát thanh bên ông Phán Bích dám rao là ngày mai trời có bão. Gần sáng, trời tháng chín mà lại trở hơi nóng. Tịnh xoay mình đạp hết mền của hai chị em. Trong lúc mơ màng, Tịnh nghe mưa trên mái tôn lách tách: ba trở mình dậy bước qua đắp mền cho hai chị em, vì sợ mưa lạnh. Từ ngày mạ mất đi, ba ở vậy với hai chị em, săn sóc cho cả hai từng ly từng tí.

Ngoài trời gió bắt đầu thổi mạnh, rồi mưa lớn dần. Tàu lá chuối sau hè quét lên mái nghe sàn sạt. Thường lăn vào ôm lấy chị, rúc đầu vào bụng chị. Tịnh mới lên 7, Thường 4, hai chị em thui thủi với nhau suốt ngày nên thương nhau lắm. Trời đã sáng, mưa càng lúc theo gió càng lớn. Trong nhà đã có vài nơi dột lộp độp. Trên bàn thờ mạ, nước nhỏ trên cây đèn nghe tong tong. Ba lăng xăng chạy hết nơi này đến nơi khác, sợ ướt áo quần, sợ nước vô tỉn gạo thì lấy chi mà ăn. Ba xuống bếp chiên lại bát cơm ăn còn hôm qua để rồi tiếp tục đi làm kẻo trưa. Trước khi ra cửa, ba dặn hai chị em không được ra ngoài mưa, ướt áo quần không có gì mà mặc. Thế là hôm nay, Tịnh khỏi phải ra chợ hốt cải úa, rau úa. Suốt ngày trời mưa tầm tã, đến chiều ba về, ba bảo nước đã lên khá rồi. Bên Đập Đá, nước xấp xỉ mắt cá. Tối nay sợ hai con lạnh, ba qua nằm chung cho hai đứa có hơi nóng và có đạp mền thì ba đắp giùm.

Nước vô nhà nửa đêm mà hai chị em đâu có biết, nghe tiếng ồn ào, mở mắt ra thì ba đang lội bì bõm chồng bàn ghế, và mấy cái tỉn gạo, nước mắm lên cao. Nhà của Tịnh ở sau lưng một cái vườn băng vô một con đường kiệt nên ít ai biết. Gió lạnh theo kẽ hở lùa vào tứ phía, hai chị em năm nay chưa có áo lạnh nên ngồi co ro trên phản. Gió từng chặp giật trên mái tôn như muốn bứt đi. Nước đã xấp xỉ tấm phản, ba bồng hai chị em qua cái kệ rồi gác mấy tấm phản lên trên kèo, đem lần từng đứa lên đó. Ba nói, bây chừ có đi mô cũng phải có đò, nước lên có nhiều lắm là tới ngang đồn đôn rồi thôi. Rứa là suốt ngày ba cha con phải nhịn: lấy chỗ đâu mà nhen lửa, bắc bếp. Thường đói bụng khóc ầm ỹ, ba dỗ cho nó ngủ được một giấc, đến chiều dậy lại kêu đói. Đâu đây nghe có tiếng xuồng máy chạy quanh ngoài vườn hỏi từng nhà. Ba đưa tay đập vào mái tôn, nhưng vô ích, vừa mưa lại vừa gió ai mà nghe lọt. Ba đã bắt đầu lo, vì nước cứ lớn lên từng chặp. Nằm trên ván khít nái tôn, dưới lưng nước chảy nghe lắp chắp đập vào vách tre: trên cũng lạnh mà dưới cũng lạnh. Ba, phần thì sợ nước lớn, phần thì lo hai đứa ngủ quên mà lăn xuống nước thì khổ, nên vừa thức canh chừng nước, vừa trông con.

Nửa đêm nước không lên nữa nhưng gió vẫn thổi ào ào. cây cối ngoài vườn ông Phán chắc không còn chi nữa. Vì lạnh và đói, hai chị em ngủ một giấc ngủ chập chờn, hễ tỉnh thì lại kêu ba. Tịnh đã lớn không dám khóc, chứ Thường thì cứ kêu đói mãi. Ba nuốt nước mắt, lấy cái chén hứng mấy giọt nước mưa vô Thường uống cho đỡ xót bụng. Nước vẫn cầm chừng hơn một ngày, không chịu xuống. Trưa hôm nay, nước đang còn ngang lưng cột, ba dặn Tịnh ôm em ngồi vào trong mé vách, đừng lần ra ngoài mà nguy. Cỗi hết áo ngoài, chỉ mặc có quần cụt, ba nói để đi kiếm cái ăn cho. Vừa đụng chân xuống nước, ba giật lên hít hà kêu lạnh quá, nhưng rồi ba cắn răng nhảy ùm xuống, lần ra cửa ván đi ra vườn. Rồi không nghe tiếng ba nói nữa, chỉ có nước bì bõm. Thường ré lên khóc kêu ba, Tịnh phải lo dỗ để ba đi lấy cơm về cho.

Khoảng hai mươi phút sau, nghe tiếng nước bì bõm, ba trồi đầu lên, mặt ba tím ngắt như miếng huyết đông. Ba run cầm cập, đưa cho Tịnh một nải chuối xanh. Ba không nói chi được hết. Chắc là nải chuối ba bẻ nơi buồng chuối gãy của ông Phán Bích đây. Ba lần mò bò lên và đưa lần son, quẹt lên trên tấm phản. Lau khô xong, ba quẹt diêm nhúm lửa bắc son nấu buồng chuối. Đến chừ Tịnh mới hiểu, gạo trong tỉn chỉ còn có hai nắm, ba bỏ nấu chung với nải chuối, và bắt đầu nói chuyện. Ba chỉ lần ra đến đầu đường hẻm thì lạnh quá ba lội lui, thấy cây chuối nhà ông Phán ngã gãy nắm chắn ngang, ba vội bẻ vô nấu đỡ.

Lửa ấm, nước sôi reo. Thường thấy vui mắt và đánh hơi có cái ăn nên không khóc nữa. Hai nắm gạo sôi nhừ với chuối sống, không muối, không mắm, nhưng đói đã hai ngày, ăn cũng ngon lắm. Phần ba chỉ có chút nước cháo và một trái cuối, ba cho Thường và Tịnh ăn hết.

Đến tối hôm nay nữa là nước ngâm đã hai ngày chẵn. Trời bắt đầu trở mưa lại, nhưng nước thì rút dần, rất chậm. Ba, phần lội nước lụt bị lạnh, phần thì mất ngủ, nên nằm một góc rên hừ hừ. Tịnh chắc là ba đau rồi, đưa tay vói lấy cái mền đắp cho ba. Quá mệt, ba cha con ngủ ngon mà không biết nước đã rút nhiều. Khi mở mắt ra, Tịnh mới hay là nước còn trong nhà, nhưng chỉ ngang đầu gối thôi.

Có tiếng ai lao xao ngoài cửa. Tịnh đưa tay lay ba, người ba nóng như lửa. Ba bệnh rồi. Vừa khi đó, một bóng người len cửa chun vào. Tịnh chưa kịp nhìn ra, thì có tiếng nói: "Có người" Rồi tiếp theo một người nữa chun vào, người vào trước vẫy Tịnh hỏi: Có mấy người trên đó em? Tịnh sợ quá, không trả lời. Người đó leo lần lên ván, nhìn thấy, sờ vào trán ba, rồi tụt xuống nói với người vào sau: Có người bệnh và hai em nhỏ. Họ bỏ ra đi chừng năm phút thì ba trở mình rên y ỷ. Tịnh nói có người hỏi, mà ba cũng không trả lời. Lúc đó, thì những người kia trở lại. Họ đem theo hai ổ bánh mì nóng, một gói cơm và muối mè. Tịnh thấy cơm mới hết sợ, biết là họ đem cho mình. Họ đỡ ba lên cho uống hai viên thuốc, dặn Tịnh ăn cơm và đút cho em rồi họ sẽ trở lại.

Nước đã rút ra ngoài sân. Mưa chỉ còn vài hạt lất phất thôi. Chiều nay ba mới bớt sốt, được Tịnh kể chuyện lại, ba mừng, ngồi dậy, ngó hai con, đôi dòng nước mắt rơi trên má:

- Không biết răng chừ, mới hết khổ. Trời hành chi cái xứ mình hoài?


HOÀNG TUỆ NGA   


(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 155, ra ngày 15-6-1971)

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

Thư về miền Trung
















Gởi về miền Trung thương yêu 
trong cơn bão lụt

Đã lâu quá không về thăm đất Phú (1)
Chừ nghe tin bão lụt ngập miền Trung
Lòng nặng trĩu như một buổi chiều đông
Hai khóe mắt bỗng dưng tuôn giọt lệ.

Em đặt bút ươm vần thơ nhỏ bé
Gởi quê nhà thăm người chị thân yêu
Mái tóc mây ôm khuôn mặt diễm kiều
Đã lâu lắm em chưa từng gặp lại.

Buổi chiều nay tâm hồn em tê tái
Khi biết rằng đất mẹ ngập đau thương
Nước dâng cao tràn khắp cả phố phường
Bỏ nhà cửa, người tìm lên đỉnh núi.

Lúa dậy thì dân làng chưa kịp hái
Chừ uống no một biển nước mênh mông
Nào trâu bò gà vịt thả chạy rông
Đang sình thối bên thây người tan rữa.

Kẻ sống sót biết tìm đâu nương tựa?
Chẳng còn gì dù manh áo che thân
Chẳng còn gì dù một chén cơm ăn
Đang đói rách co ro trong giá rét.

Trong khi đó có những người dân Việt
Sống no đầy phè phỡn chốn thành đô
Đang nhảy múa giữa điệu nhạc lời ca
Vung bạc vạn mua vui trong phút chốc.

Họ đâu biết dân mình đang rên khóc
Bị đọa đày trong thảm cảnh lầm than
Cùng máu hồng xương trắng với da vàng
Sao có kẻ đế vương người khổ sở?

Lá thư này em gởi về phương nớ
Cầu mong sao cho chị được bình an
Và cầu mong cho cô bác trong làng
Mùa gặt tới lúa đơm bông nặng trĩu.

Rồi một mai trong buổi chiều nắng dịu
Em trở về thăm lại chốn quê xưa
Thăm dòng sông uốn khúc giữa hàng dừa
Để cùng chị sống những ngày thơ ấu.

                                                TRINH CHÍ
                                                      11-70
 ____________
(1) Phú Yên.

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 142, ra ngày 1-12-1970)

 

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

Những Ngày Mưa Lụt


Một tuần qua, trời Huế mưa dầm. Ngày cũng như đêm, buồn da diết. Tiếng mưa rì rào hòa lẫn với tiếng gió trong cây, tạo nên một âm thanh não nuột.

Đường lên Kim Long thưa thớt người. Thỉnh thoảng, vài chiếc buýt lặng lẽ lướt qua. Hai dãy nhà, suốt ngày đóng cửa kín mít. Mưa ướt, gió lạnh với cái im lặng của ngoại ô làm cho cái thị trấn này có vẻ buồn thảm.

Nhà tôi nằm ngay trên bờ sông Hương tả ngạn. Về mùa nắng thì gió mát nhưng đông đến thì buốt tận xương. Những ngọn gió như quất vào da thịt.

Phòng học của mấy chị em tôi được xây trên sông như một gian nhà nổi. Phòng này cách nhà ở một khoảng sân rộng. Mùa mưa, sách vở học được chuyển vào trong. Phòng này chỉ chứa truyện, tạp chí và sách vở cũ. Chỉ mình tôi thường ra đấy những lúc nhàn. Nhất là vào những ngày mưa như hôm nay.

Tôi thích ngồi lặng lẽ ngắm dòng sông. Những giọt mưa rơi xuống, bắn tung làm nhăn nheo mặt nước. Từng đợt sóng trắng xóa tới tấp đuổi nhau chạy vào bờ. Giữa lòng sông như có bọt trắng. Rồi nước xoáy mạnh. Từng lớp rều theo nước cuốn đi. Sau đó là củi từ phía thượng lưu trôi về. Nước đục ngầu và sóng gió mỗi lúc một lớn. Mực nước sông cao dần… cao dần, tôi thấy rõ.

Một đàn cò trắng từ đâu bay ngang qua, hướng về phía núi. Điệu này rồi có lụt to. Tôi định vào nhà báo tin cho mẹ tôi, nhưng vừa xây lui, người đã đứng đó từ bao giờ.

- Mẹ, con thấy cò bay lên và nước mau lớn quá.

Bà gật đầu, mỉm cười:

- Rồi sao nữa?

- Con sợ lụt mẹ à. Mấy người làm cá ngoài sông họ bảo năm nay nhãn sai thì nước to.

Mẹ tôi không trả lời. Bà nhìn trời đất với nhiều nét đăm chiêu lo lắng. Một lát bà bảo:

- Lạnh quá… Con ở đây lâu chưa? Vào thôi kẻo đau đấy.

Tôi nũng nịu gục đầu vào vai mẹ chưa chịu vào nhà.

Bấy giờ trên sông có nhiều chiếc “tròng” xuất hiện. Người ta lũ lượt đi vớt củi. Nhìn một chiếc ghe bé nhỏ, một thân hình ở trần trùng trục, ướt đẫm nước đang loay hoay với khúc củi giữa dòng, tôi hồi hộp lo sợ. Chiếc ghe xoay như chiếc lá. Nước tống mạnh và con người bất lực. Cứ thế, những ghe thuyền hoạt động trên sông.

Tôi ngồi yên một lát rồi vào nhà. Trời tối hẳn.

*

Tôi giật mình thức dậy vì có nhiều tiếng động chung quanh: tiếng người nói, tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng đồ vật lịch kịch chạm nhau và cả tiếng mái chèo khuấy nước, bì bõm đâu đây rất gần.

Trí tôi chợt nhớ ra. Trời ơi, nước đã vào nhà sao? Tôi ngồi dậy bật đèn. Điện bị cắt. Chân tôi đang khua khua trên sàn để tìm dép thì có tiếng mẹ tôi:

- Dậy chưa Huê? Lụt rồi đó.

Ra khỏi phòng thì đèn đuốc sáng trưng. Đồ đạc đâu đã vào đấy.

Tiếng ba tôi mắng yêu:

- Gớm, ba mẹ dọn dẹp cả giờ mà con gái vẫn ngủ kỹ.

Mẹ tôi thêm:

- Ai chứ con tôi “ngoan” lắm. Nước ướt lưng, không gọi cũng không biết.

Tôi dụi mắt nhìn kỹ, mực nước đang lấp liếm vào nhà trong. Bỗng nhiên tôi hốt hoảng:

- Thôi, chết rồi…

- Cái gì thế?

Không trả lời ba, tôi xăm xăm bước ra phòng khách, phòng ăn. Ngang khoảng sân tôi đứng sựng lại. Phòng sách bị nước ngập hết rồi.

Sợ tôi lội xuống nước, ba tôi kềm lấy tay tôi, tưởng tôi còn mê ngủ. Nhưng tôi tỉnh lắm rồi. Tôi lo tủ sách bé bé của tôi bị nước cuốn… Khi được biết đồ đạc đã an toàn trên gác, tôi yên tâm. Ba mẹ thương con quá nhiều, lo lắng chu đáo cho tôi quá.


Đồng hồ điểm 4 giờ. Chung quanh nhà là nước hết. Tôi đi gọi lũ em dậy. Đứa nào cũng “ngủ say như chết” nhưng nghe nước lụt vào nhà thì tỉnh ngay.

Bữa cơm sáng được dọn ra lúc 5 giờ. Ba tôi luôn miệng nhắc:

- Ăn cho no, đứa nào cũng thế. Nhỡ có bão kèm theo, nấu không được đâu.

Lạnh lắm nhưng thấy chị ở lội sì sục dưới nước tôi cũng thèm.

- Mới 10 phút mà đã lên khỏa nền nhà rồi cậu ơi.

Ba tôi lo lắng bế từng đứa nhỏ lên gác. Tôi nằn nì ở lại dưới canh chừng để biết nước lên bao nhiêu nhưng mẹ tôi không chịu. Ngồi trên gác cao, tôi lo sợ vẩn vơ.

Trời sáng dần. Tôi thấy rõ dòng sông rộng mênh mông và nước chảy ồ ạt. Từng nóc nhà phía dưới, nước chấm mái tranh. Có nhà bị tung cả nóc. Những người đó đã đi đâu? Tôi đang nghĩ đến họ thì có tiếng chân chạy lên gác: Tiếng chị ở bị đứt quãng:

- Thưa cậu mợ… có hai chiếc ghe Hướng đạo chở người đến… xin ở nhà mình.

Ba tôi đi xuống đón họ. Tôi định chạy theo nhưng mẹ tôi giữ lại. Bà “bắt” tôi khuấy sữa cho em bé.

Mẹ tôi trở lên lấy quần áo xuống. Tôi biết họ đói và lạnh.

Những người mới đến vẫn ở dưới nhà cho đến trưa, lúc nước lút bộ ván mới lên gác.

Đến bữa cơm, thật là khổ. Bếp được nhóm giữa nhà. Khói lên ngun ngút. Mắt cay tưởng có thể mù. Và nước mắt ứa ra.

Bên ngoài mưa ào ào xen lẫn gió. Căn gác tưởng có thể sụp. Từng ngọn cây bị gió đánh, quét vào tường, vôi đổ bì bõm.

Bỗng nhiên, trên mái nhà của căn gác, một khoảng ngói bị chạy dài. Nước trút xuống lên đầu lên cổ những người đang trú ẩn nơi đây. Nhìn qua khoảng trống, bầu trời như có muôn ngàn đôi mắt bạo tàn đang chiếu đến từng nhà phá phách.

Thấy cảnh “màn trời chiếu đất” đến bên mình, lòng tôi se thắt. Ý nghĩ chết chóc lảng vảng đâu đây. Tôi nhắm mắt, ngả mình bên góc tủ. Mọi người nhốn nháo. Tiếng bàn tán xôn xao.

Tôi nghe tiếng mõ cấp cứu xa xa. Liệu gia đình tôi có dùng tiếng mõ ấy không? Bên cạnh tôi, mẹ tôi buồn thở dài não nuột.

Nhờ người đông, chỗ nhà bị bay ngói được vá víu tạm thời bằng những tấm khăn bàn không thấm nước.

*

Qua một đêm dài kinh hãi, cuộc sống chen chúc trên gác tù túng chật chội được giải quyết. Nước xuống dần dần và trời không còn gió lớn. Những người tỵ nạn được trở về mái nhà xưa để sửa sang lại.

Nhà tôi, sau ba ngày dọn dẹp, giờ đã sạch sẽ, bùn lầy được đẩy ra xa. Tuy nhiên, vết tích của mực nước vẫn còn để ngấn lại trên tường vôi trắng.

Mặt nước sông Hương sau trận lụt đã trở lại bình thường. Nhìn dòng sông lặng lờ chảy, ai có thể bảo trước đó đã càn quét nhà cửa, của cải của dân lành.

Một cơn tai biến đã qua. Trong mùa mưa lạnh này còn bao tai biến khác. Bên ngoài mưa… mưa mãi. Buồn cho mùa đông xứ Huế.


THƯƠNG VIỆT PHƯƠNG  


(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 34, ra ngày 25-11-1965)



oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>