Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

Bóng Phượng Hồng

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Ngày phượng nở: Vào hè
Trường nức nở tiếng ve
Cánh cổng già khép lại 
Đón mùa hoa phượng về

Rồi trong nắng chói chang 
Lũ ve sầu râm ran 
Bầy chim ríu rít hót
Mừng gió hạ dịu dàng 

Em ngoái lại giảng đường 
Tà áo trắng vấn vương 
Chẳng còn bay trong gió
Lưu luyến niềm yêu thương 

Rồi tháng tám về đây
Phượng rầu rĩ khóm cây
Từng cánh buồn rơi rụng 
Làn gió chiều bay bay

Một ngày qua kẽ lá
Chẳng còn bóng phượng hồng
Mùa hè nay xa quá
Cho ngấn lệ rưng rưng 

                            THƠ THƠ 
                   (Bút nhóm Hoa Nắng)

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Con Bọ Gạo


Từ muôn đời, vấn đề lúa gạo vẫn là mối băn khoăn lo lắng của loài người, vì loại nhu yếu phẩm này không thể thiếu hụt trầm trọng giữa lúc dân số ngày một gia tăng đông đảo khiến cuộc sống trở nên cam go, vất vả. Gặp những năm thiên tai như lụt lội, hạn hán thì không nói, bình thường lúc gạo thu hoạch đủ để phân phối đồng đều đi khắp nơi theo nhu cầu đã là điều may mắn, nhưng nếu công việc tiếp tế ấy được duy trì liên tục, nghĩa là số lượng sản xuất luôn luôn dư dả lại càng quý hơn. Do đó, phần dự trữ trong các kho hàng rất quan trọng. Tất cả phải được giữ gìn cẩn thận để chẳng những đề phòng kẻ phá hoại và ngăn ngừa thú vật đục khoét mà còn lưu tâm tới bọ gạo vẫn thường làm hư hỏng một số lượng đáng ngại.
 
Là một trong trăm ngàn thứ sâu chuyện hủy hoại hoa quả và các loại hạt giống nông nghiệp Curculiomidae, bọ gạo mang tên khoa học Sitophilus Oryza mà có lẽ các bạn đã từng thấy mỗi khi mẹ âu yếm gọi lại rồi đưa cho rá gạo và nhờ: "nhặt trấu, sạn hộ mẹ đi con, chóng ngoan" chẳng hạn.
 
Với loại gạo mới (thứ gạo mới xay, giã dưới sáu tháng thì chưa chắc gì bọ gạo có dịp tấn công, nhưng nếu đã từng "nằm" trong kho cả năm trời mới đáng ngại, vì chắc chắn với thời gian lâu như vậy số gạo sẽ bị chúng kéo tới mặc sức tung hoành.
 
Lẫn trong những hạt gạo trắng ngà, thỉnh thoảng lại có dăm bẩy con vật nhỏ bé - chỉ dài chừng hai hay ba, bốn ly là cùng - màu đen đẹn hoặc nâu nâu đang hốt hoảng chui chui, rúc rúc để lẩn trốn, và cũng có thể đi tìm những "búi" gạo do các sợi tơ trắng kết lại thành màng dính chặt bao bọc bên trong một con sâu. Đấy là bọ gạo và ấu trùng đấy.
 
Bạn có tin rằng chúng dư khả năng khoét thủng từng hạt gạo cứng lại lớn gấp đôi thân xác mình hầu lấy chỗ nương náu hay đẻ trứng sau khi đã no đủ thường xuyên không? Đối với chúng, chuyện đó chẳng khó khăn chút nào, bởi lẽ phương cách sinh sống của loài này là như vậy và chỉ có vậy mà thôi. Tùy từng loại, bọ gạo gặm hoặc đục hạt gạo để ăn, đồng thời tạo thành những lỗ tròn tròn xinh xinh đủ làm chỗ "chui ra chui vào".
 
Loại bọ gạo năng gặp nhất mang màu đen hoặc nâu sậm với chiếc mõm nhọn, nhỏ, ngắn (ở con đực) hay dài (ở con cái) bằng một phần năm thân xác. Mõm này hơi cong cong khoằm xuống giữa hai sợi râu nhô ngang rồi gãy góc hình thước thợ mọc chĩa về đắng trước. Râu đó cụt lủn ở ngang mõm nhưng chứa hai mấu to giúp chúng thăm dò "đường đi nước bước" cũng như tìm mồi. Ngay sau chiếc mõm là đầu bé cỏn con mang đôi mắt tí tẹo, thế mà từ cổ trở xuống cho tới lưng và bụng lại to chình ình. Vốn được xếp vào loại xén tóc, bọ gạo cũng có hai lớp cánh. Lớp ngoài nhẵn, cứng dùng che cở cho lớp cánh mỏng bên trong. Chính lớp cánh mỏng này mới cho phép chúng bay dễ dàng, trong khi lớp cánh ngoài chỉ xòe ra giữ thăng bằng chứ không hoạt động. Mỗi khi đậu xuống nơi nào xong, các cánh liền khép kín lại trên lưng ngay, bọ gạo dùng sáu chân ngắn bò đi kiếm mồi. Chúng di chuyển thật nhanh.
 
Thường thường con đực đứng  canh cho con cái đẻ trứng vào lỗ hổng trên hạt gạo. Chừng vài tuần sau, trứng nở thành sâu màu vàng tức ấu trùng. Chúng sống giữa những hạt gạo dính chùm chung quanh do chúng tự tiết ra một loại tơ trắng đục kết lại thành từng mảng. Phải chờ một thời gian sau nữa, ấu trùng mới trưởng thành rồi bò đi sinh sống và gieo giống như cha mẹ chúng.
 
Ngoài loại đó ra, chúng ta còn gặp bọ gạo màu nâu nhạt hoặc sậm hơn mà nhác trông hơi giống con bổ gỗ. Khác với loại trên, bọ gạo này không có mõm dài, đã vậy râu lại ngắn và mọc thành vòng cung hướng về trước. Đầu nhỏ chứa cơ quan gặm nhấm ; chúng còn khác ở chỗ ức ngắn nhưng lưng dài ngang cặp cánh cứng y hệt loài trên và bò thật nhanh cũng như bay lượn dễ dàng.
 
Về cách sinh sản cùng thơi gian biến thể từ trứng ấu trùng trước khi trưởng thành, cả hai loại giống hệt nhau.
 
Theo bảng thống kê thì mỗi năm bọ gạo vẫn phá hoại trung bình hàng trăm tấn các loại ngũ cốc, nhất là lúa mì, gạo trong các kho hàng trên thế giới - một con số tuy nhỏ nhưng cũng đủ dành cứu thoát bao mạng người. Để diệt trừ chúng, các khoa học gia tìm cách làm cho chúng lây bệnh "nan y" nghĩa là họ nuôi rất nhiều bọ gạo trong những hộp chứa thuốc diệt côn trùng với liều nhẹ, sau đó đem thả tất cả sống lẫn lộn cùng những con khác. Với cách đó, sự thiệt hại do loài này gây ra giảm đi rất nhiều.
 
Ngoài ngũ cốc, bọ gạo còn làm hư hỏng cây cối, hoa quả, nhà cửa v.v... nên chúng bị liệt vào loại có hại cần tận diệt.
 
 
ĐẶNG HOÀNG      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 127, ra ngày 1-8-1974)
 

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

Hoa Trắng Còn Cài...


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Hoa trắng nở em cài lên mái tóc
Chim trên cành hót sớm giọng bình yên
Hồn mở rộng đón mây trời bích ngọc
Em tung tăng bước nhỏ thật ngoan hiền
 
Hoa trắng nở em cài lên áo trắng
Gió ở mô mà những sớm đến trường
Làm phiến lá rơi buồn con lộ nắng
Biết làm răng cho lá khỏi se hường
 
Trường em đó - Cây hiền sai trái ngọt
Chim mười phương về mở hội một phương
Trên cành liễu lời vàng ca thánh thót
Em nghe thương tuổi ngọc mộng bình thường
 
Tuổi thơ em mang niềm tin trong mắt
Dù thời gian làm úa vỡ dung nhan
Em vẫn xin tuổi trẻ mãi không tàn
Để hoa trắng còn cài lên áo trắng.
 
                                      Trần Miên Trường
 
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 111, ra ngày 1-8-1969)
 

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2025

Chuyện Mấy Chú Khuyển


Trời sinh ra giống chó là con vật biết hy sinh hớn tất cả các loài có vú khác, trừ loài người. Nhưng nhiều khi lòng hy sinh của con người lại do luật lệ ràng buộc, do những tấm gương sáng thúc đẩy, và thường khi do lợi lộc hay danh vọng chi phối. Riêng đối với mấy chú khuyển, sự hy sinh đến bỏ mình vì người khác của mấy chú không hề dính dáng tới những điều trên. Biết bao câu chuyện đã nói lên được lòng quả cảm bộc phát rất tự nhiên và đáng khâm phục của mấy chú.
 
 
Vì nghĩa quên thù
 
Ma-la-cốp là một chú chó rất lớn thuộc giống Đất Mới. Chú giữ nhiệm vụ canh gác một hiệu kim hoàn ở Ba-lê. Bọn thợ trong tiệm rất ghét chú vì chú thường theo dõi bén gót họ. Do đó, bọn thợ có ý hãm hại chú. Một hôm, một trong những người thợ trong tiệm tên là Giắc, dụ được Ma-la-cốp tới bờ một bến tàu, nằm bên dòng sông Sen. Anh này lấy nột sợi dây thừng, tròng một đầu vào cổ con vật, còn đầu kia cột chặt vào một tảng đá. Sau đó, anh ta xô con vật xuống sông. Nhưng chẳng may sợi dây lại mắc phải chân Giắc. Nên khi Ma-la-cốp té xuống, nó kéo luôn cả Giắc xuống theo. Trong khi đó, Giắc lại không biết bơi.
 
Ma-la-cốp ngoi được ngay lên trên trên mặt nước và bơi rất mạnh vào bờ, kéo theo cả tảng đá tuy nặng, nhưng không đủ sức dìm Ma-la-cốp xuống đáy sông. Ma-la-cốp nhận ra người thanh niên có dã tâm giăng bẫy giết mình. Giắc đang vùng vẫy và bắt đầu chìm. Không chần chờ, Ma-la-cốp phóng mình về phía trước cùng với hòn đá to lớn. Chú dùng mõm giữ lấy cổ Giắc để nâng cho cái đầu anh khỏi chìm xuống nước. Nếu chỉ có một mình thì dù hòn đá có nặng đi chăng nữa, Ma-la-cốp vẫn bơi được vào bờ một cách dễ dàng. Đằng này lại kéo thêm cả Giắc nên Ma-la-cốp khó vượt qua được sức gió và dòng nước ngược chiều.
 
Như thế, một là chết hết với nhau ở dưới sông, hai là để tự bảo vệ mạng sống, Ma-la-cốp chắc phải bỏ rơi con người độc ác đã muốn loại trừ chú. Nhưng không! Con vật dũng mãnh đã thắng lướt tất cả. Ma-la-cốp cố giữ cho cái đầu của địch thủ ngoi lên trên mặt nước cho tới khi có một khách bộ hành đi ngang qua. Người này đã cứu được cả hai.
 
Sau đó, Giắc vừa khóc vì cảm động, vừa kể lại đầu đuôi câu chuyện cho mọi người nghe. Từ đấy, Ma-la-cốp nổi tiếng khắp Ba-lê và được dân chúng mến thương. Đến khi Ma-la-cốp chết, rất đông thợ thuyền tiễn đưa chú tới nơi an nghỉ cuối cùng.
 
 
Những con chó khôn
 
Vào một đêm nọ, khi mọi người đang yên giấc, bỗng chị chó Đa-la hốt hoảng chạy ngược, chạy xuôi. Chị sủa ầm ĩ cả lên. Rồi chị nhẩy lên giường, lôi kéo chủ thức dậy, vì chị thấy lửa đã bắt đầu cháy ở trong nhà. Đến khi thấy ba đứa trẻ con của chủ đã được lính cứu hỏa đưa ra ngoài phố an toàn, Đa-la mới chạy về phía chuồng tìm kiếm lũ con mới sinh cách đó mấy ngày.
 
Nhiều con chó đã được dạy như những người lính canh đáng tin cậy. Chúng có đôi mắt rất tinh và chiếc mũi rất thính. Mỗi khi phát giác ra đám cháy, chúng biết sủa và đánh thức mọi người dậy. Đứng trước ngọn lửa đang hoành hành dữ dội, chúng tỏ ra sợ hãi lắm. Tuy nhiên, nhiều khi chúng biết hy sinh, tự động nhảy vào chỗ nguy hiểm để cứu mạng người, chẳng kể đến thân phận mình. Chính những lúc đó, người ta mới thấy nổi bật hẳn lên cái đặc tính quả cảm của dòng họ nhà khuyển. Chẳng hạn như trường hợp con Zi-dơ dưới đây.
 
Khi thấy nhà đang đêm bỗng bắt lửa, Zi-dơ đánh thức chủ dậy. Hai vợ chồng người chủ kịp chạy ra ngoài với đứa con thơ. Bà hàng xóm thấy vậy, lấy khăn bọc lấy đứa bé, rồi bồng về nhà bà ta. Sau đó, một người bà con của đứa bé chạy tới, hốt hoảng vì không thấy đứa bé đâu. Người này tưởng cháu mình con nằm ở trong nôi, mới vội chỉ tay vào ngôi nhà đang tràn ngập lửa đỏ, nói với Zi-dơ: "Zi-dơ! Vào nhà tìm bé đi! Mau!"
 
Zi-dơ vốn rất sợ lửa, nhưng nó hiểu đây là lời cầu cứu khẩn cấp, nên nó vâng lời ngay. Sau khi sủa to lên một tiếng, Zi-dơ phóng mình vào căn nhà đổ nát đầy khói lửa và rồi chịu chết ở trong đó. 
 
 
Lại một hành động dũng cảm
 
Tại một tiểu bang ở Ô-rê-gông, người ta đã dựng lên một tấm bia bằng cẩm thạch để tưởng nhớ đến Sép, một chú chó thuộc giống rất lớn, cũng bỏ mình trong đám cháy vì cử chỉ kiêu hùng của chú.
 
Mân, chủ của Sép đang làm việc ngoài đồng cùng với vợ. Hai người để đứa con nhỏ là Ly-ly ngủ trong một căn nhà gần đó. Bỗng Sép đánh hơi thấy mùi khen khét và nghe thấy tiếng nổ lách tách. Sép sủa vang mấy tiếng. Mân ngẩng lên, thấy nhà mình bị cháy. Hai vợ chồng vội chạy về. nhưng vì vướng phải nhiều bụi rậm và mô đất, nên khi về tới nhà, họ đã thấy cửa mở tung. Khói ở trong đang cuồn cuộn bốc ra bao bọc lấy họ. Mân nói với con chó đang run lên vì sợ: "Sép! Đi tìm Ly-ly mau!". Con chó quên cả sợ hãi. Nó lao mình như mũi tên vào màn khói lửa. Một phần mái nhà sập xuống ngay sau lưng Sép, làm gẫy vụn chiếc cửa ra vào. Lòng can đảm đã khiến Sép bình tĩnh lại. Sép tới được chỗ để cái nôi rồi tha bé gái tới một cái cửa sổ xa chỗ cháy nhất. Mân ngả người vào phía trong, đỡ lấy con.
 
Như vậy là Sép đã thi hành xong phận sự. Bây giờ nó có quyền phóng ra phía ngoài để lo an ninh cho chính nó. Sép nhảy qua cửa sổ. Nhưng trễ quá rồi! Bộ lông của Sép đã bị cháy hết và toàn thân đã phỏng nặng. Sép khụy dưới chân chủ và thở hơi cuối cùng.
 
Trước cái chết  dũng cảm của Sép, Hen-ri Đa-ni-en, chủ tịch Hội Bác Ái Ô-rê-gông tuyên bố: "Hành động phi thường của Sép đáng được con người ghi nhớ!"
 
 
Nhanh trí cứu chủ
 
Bo-bo cũng là một chú chó lớn. Chủ của chú là một tiều phu người Gia-nã-đại, tên Andre Minette (Ăng-đơ-rê Mi-nét). Nơi ở của Andre Minette nằm ở trong một khu rừng thưa, gần thác Sequin (Sơ-canh). Ông ở đây với vợ và đứa con trai nhỏ tên Giăng.
 
Một hôm, bé Giăng được cha đặt trong một chiếc xe hơi đậu bên lề một đồng cỏ, sát với khu rừng. Còn Andre Minette thì vào rừng làm việc cùng với Bo-bo. Thình lình Bo-bo chồm nhanh như tên bắn về phía bé Giăng. Người tiều phu thấy có ba con sói to lớn, màu xám ; tất cả đều gầy đét, đang xông về phía chiếc xe có bé Giăng nằm. Người tiều phu vì còn ở xa, nên không sao can thiệp kịp. Nhưng Bo-bo thì khác. Chú phóng mạnh về phía lũ sói để lo bảo vệ con của chủ. Bo-bo biết rằng một mình chú không thể chống lại ba kẻ thù hung bạo. Nhưng chú phải tìm cách cứu bé Giăng.
 
Thế rồi, thay vì tiến tới chỗ có chiếc xe hơi, Bo-bo lại dừng lại ở lưng chừng, ngay phía đằng sau lũ sói. Lũ sói xoay mình nửa vòng, chuẩn bị đương đầu với kẻ thù. Bo-bo nhảy dứ một cái để khiêu khích, cốt làm cho lũ sói quay hẳn mặt về phía Bo-bo mà quên cái đích chính là bé Giăng. Lũ sói mắt đỏ hoe vì tức giận, chúng vừa gầm gừ, vừa nhe những chiếc răng trắng hếu, dài và nhọn hoắt ra như muốn ăn sống, nuốt tươi kẻ địch. Chợt Bo-bo quay mình, cắm đầu chạy vào rừng. Cố nhiên lũ sói không chịu buông tha. Tất cả đều xông lên, đuổi bén gót Bo-bo.
 
Trong khi đó, Andre Minnette đã đủ thì giờ chạy tới chỗ bé Giăng đang ngủ. Vậy là bé Giăng thoát nạn.
 
Nhưng thay vào đó, Bo-bo đã bị đàn sói đuổi kịp và giết chết.
 
 
VĂN TRUNG       
(Phỏng theo Albert   
Payson Zerhunet)  
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 100, ra ngày 29-7-1973)
 

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

Bong Bóng Hai Đồng


 
 
  
 
 
 
 
 
Em đòi mua bong bóng
Khi thấy người bán qua
Tay quơ quào muốn khóc
Làm ai cũng xót xa.
 
Bong bóng đẹp trăm màu
Nhưng hai đồng mắc lắm
Má buôn bán xa rồi
Tiền đâu mua với sắm?
 
Thôi em đừng khóc nữa
Trời đã đổ mưa hồng
Thấy không ngoài vũng nước
Bong bóng đang phập phồng.
 
Lời ca dao má dạy
Chập chững hát ru em
Gió đùa nghiêng võng lác
Mưa trăn trở giọt hiền.
 
Em ngủ rồi dễ dãi
Khát sữa nút tay không
Ngón hồng thôi quơ khóc
Ôi! Bong bóng hai đồng.
 
                         HOA CỎ MAY
 
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 111, ra ngày 1-8-1969)
 

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2025

Chiếc Tổ Chim


Mấy ngày nay, trên cây lim xẹt trước cửa nhà tôi, có một đôi chim tới làm tổ. Tôi cũng không để ý gì cho lắm, cho tới khi chiếc tổ thành hình. 

Rồi chim mái đẻ trứng vào tổ từ hồi nào tôi cũng chẳng hay, vì tổ chim rất nhỏ, chỉ khoảng chừng 5cm chiều ngang, bằng phân nửa chiều dài; màu sắc nâu nâu nên dễ lẫn vào cành cây, cũng giống như màu lông của chim.

Mưa hay nắng, ngày hay đêm, từ lúc đó trở đi, chim mái cứ kiên nhẫn nằm ấp trứng. Nhiều hôm, những người phu làm đường gây náo loạn cả khu phố vào ban đêm vì tiếng máy đào vỉa hè, máy trộn bê tông ầm ầm, làm khói bụi và xi măng bay mù mịt; nhưng nhìn ra trên tàng cây, tôi vẫn lờ mờ thấy bóng chim mẹ nằm đó, lặng lẽ ấp trứng, che chở cho những đứa con còn chưa chào đời.

Thêm vài hôm nữa, rồi tôi thấy chim mẹ bay đi đâu mất. Tôi bèn Google thấy nói vì chim đói bụng nên đi kiếm ăn. Nhìn kỹ chiếc tổ nhỏ xíu, tôi chợt nhận ra thấp thoáng có vài bé chim non ngọ nguậy. Chim mẹ đi vắng vài tiếng rồi trở về với con, khiến tôi yên tâm hơn, khi thấy hình dáng chim mẹ ngồi yên chỗ cũ, trong cơn mưa nặng hạt.

Tôi chưa bao giờ thấy chim lại làm tổ ngay trong thành phố ồn ào náo nhiệt như thế này, vì cứ tưởng chim phải biết lựa những nơi đồng quê thanh vắng để dễ bảo vệ gia đình khỏi bàn tay phá phách của con người.

Nghe người ta nói rằng đất lành chim đậu, và chim đến làm tổ là có lộc lắm, may mắn còn hơn cả tổ ong. (Trước đây cũng có bầy ong đến xây một chiếc tổ trong khóm bông giấy nhà tôi.)

Hên đâu chưa thấy, chiều nay tự nhiên có một đám người lạ mặt ồn ào mang thang nhôm tới, bắc lên cao tít, rồi lấy đi chiếc tổ chim bé xíu gồm cả những bé chim non vừa mới chào đời. Ban đầu tôi không biết đám người rần rần nọ là ai. Hóa ra họ mướn cửa tiệm cách nhà tôi một căn, và người đàn ông trung niên nọ đã từng đặt mua một lồng chim, có shipper giao hàng tới tận nơi với giá một triệu. Hèn chi ông ta rành chim chóc sáu câu: Một tổ chim nhỏ bằng bàn tay và cũng đã được ngụy trang khéo léo mà vẫn không thoát khỏi cặp mắt cú vọ của ông ta.Tôi cứ tưởng chỉ có những đứa trẻ rắn mắt, nghịch ngợm mới dùng ná bắn chim hoặc sào để thọc tổ chim thôi, không ngờ cả những người lớn tuổi như thế kia mà cũng làm những việc vô ý thức như vậy.

Sáng nay nhìn ra khung cửa sổ, không còn thấy bóng chim mẹ ngồi im như tượng ngồi ấp trứng như bao ngày qua, và chiếc tổ chim bé xíu cũng chẳng còn, tôi chợt cảm thấy man mác một nỗi buồn pha lẫn sự trống vắng. 

Hình như đạo Phật có dạy rằng... Những ai kiếp này phá tổ chim, kiếp sau phải chịu cảnh mồ côi cha mẹ từ rất sớm.

Trần Thị Phương Lan      
(Bút nhóm Hoa Nắng)      

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2025

Con Đại Thử


Đại thử là một trong những sinh vật có túi đựng con trước ngực chỉ thấy có ở Úc Châu mà thôi.
 
Người ta phân ra nhiều loại đại thử:
 
- Đại thử nhỏ nhất (kangaroo rat) sống ở cánh đồng miền Bắc Úc Châu, dài bốn mươi lăm phân, đầu hơi giống thỏ, nhưng tai bé hơn. Hai chân trước rất ngắn, hai chân sau và đuôi dài. Đặc biệt là đuôi nó có chùm lông trắng. Vốn thuộc loại gặm nhấm, biết nhảy, sống trong những vùng khô khan, nó thường đào hang, lỗ thật lớn để ở, ban đêm mới đi kiếm ăn. Món ưa thích nhất của nó là quả dâu, lá cây, cỏ và côn trùng, cùng những hạt cây khô. Để có đủ lương thực dùng vào mùa đông, nó ngậm mồi trong túi hai bên má rồi đem về tổ cất đi. Loại này cũng thấy xuất hiện ở Mỹ Châu.
 
- Đại thử cổ lông đỏ (red necked kangaroo) sống ở vùng đồng cỏ.
 
- Đại thử chuyên sống trên cây (tree kangaroo).
 
- Đại thử lông màu xám (spur tailed kangaroo) thường gặp trong rừng sâu.
 
Ba loại sau cùng lớn cỡ một thước rưỡi khi ngồi, nếu nó đứng thẳng trên hai chân sau, có thể cao tới hai thước hơn. Con nặng nhất khoảng chín chục kilô. Đầu và mõm cũng như mầu sắc đại thử giống nai, nhưng tai lại tựa tai lừa, thẳng đứng chứ không cụp xuống. Nó không cắn, nhưng biết đá như ngựa. Hai chân trước ngắn thường co lên ít sử dụng ngoài những lúc cần vít cành cây xuống để ăn lá, mầm non và nâng con lên cho nó dễ dàng chui vào túi, hoặc quắp con chạy trốn khi nguy biến, hay giơ lên nhử nhử để tìm thế tung mình đá chết địch thủ bằng hai chân sau. Hai chân này dài và khỏe hơn. Nhờ chiếc đuôi lớn dài tới một thước rưỡi giữ thăng bằng với thân mình, đại thử không chạy, nhưng nhún đôi chân sau rồi văng mình về phía trước thật xa tới bẩy tám thước chẳng khác gì có lò xo búng nó đi. Đại thử phóng như bay với tốc độ từ ba mươi tới năm mươi cây số một giờ. Ngoài ra, nó có thể nhẩy qua các chướng ngại vật như bụi rậm, lùm cây, hàng rào, thợ săn, ngựa, cao cỡ hai thước dễ như chơi. Riêng những con sống trên cây như loài gấu, dám buông mình nhẩy từ trên cây mười lăm thước xuống đất mà chẳng hề hấn gì. Điều cần chú ý là chân đại thử giống chân chó, nghĩa là gồm bốn ngón, trong số này có một móng sắc như dao cạo rất lợi hại, thường được đại thử sử dụng để gây thương tích hay xé xác địch thủ.
 
Đại thử sống thành từng bầy và không ở một chỗ cố định. Chúng hay di chuyển nay đây, mai đó trên các cánh đồng cỏ hay sườn đồi, triền núi Úc Châu, do một con già nhất hướng dẫn. Tuy hiền lành, nhút nhát, nhưng khi cần tự vệ, chúng chiến đấu thật mãnh liệt. May mắn là khu vực chúng sống thường ít thú dữ, trừ chó sói và người đi săn.
 
Khi bất ngờ bị chó sói đuổi theo, đại thử vẫn giấu con vào các bụi cây rậm rạp để thoát thân, sau đó mới trở lại đón về. Nếu người ta đưa nhiều chó săn tới mà xem chừng có thể chống cự được, đại thử cố lừa chú chó nào lớ ngớ lại gần và đá một cái chết tươi, bằng không thì nhẩy bừa xuống hồ ao, lạch suối để tránh né, vì nó bơi rất giỏi. Chú chó săn dại dột bơi theo ư? Chắc chắn sẽ bị nó dìm chết ngay.
 
Tùy theo loại, có thứ thích ăn cỏ, là non, mầm cây hay sâu bọ. Những lúc vui đùa, nhờ chiếc đuôi làm điểm chuẩn, chúng đứng trên hai chân sau, giơ hai chân trước vờn vờn tát nhẹ nhau như võ sĩ đấu quyền anh vậy. Khi nghỉ ngơi, thì cái đuôi thành ghế dựa giúp chúng ngồi thẳng đứng, hai chân trước co lên, ngắm nhìn cảnh vật hoặc canh gác cho cả bầy ăn uống. Thảng hoặc chúng mới bò bốn chân.
 
Chỉ có đại thử cái mới có túi đựng con trước ngực mà thôi. Ngay khi mới lọt lòng mẹ, đại thử con nhỏ bằng con chuột cống, chưa mở mắt, chưa có lông đã biết bám vào bụng mẹ để lần mò bò lên tìm túi chui vào. Khoảng cách này thật ngắn, vậy mà nó phải chật vật hàng nửa tiếng đồng hồ mới leo tới nơi , rồi nhờ sự giúp đỡ của mẹ, nó chui tọt vào túi nằm nghỉ. Cứ như vậy trong vòng một tháng là nó lớn bằng con sóc, tháng tiếp theo nó to như con chó con. Tháng thứ tư, khi mở được mắt ra là lúc nó lớn bằng con khỉ. Giờ đây, chú đại thử tí hon thập thò ở cửa túi, ngó nghiêng cảnh vật bên ngoài với vẻ say mê thích thú. Dần dần, lông mọc dài, chân khá vững chú mới tập tễnh trèo ra, tụt xuống đất, nhưng chưa dám đi xa, mà chỉ quanh quẩn dưới chân mẹ thôi. Tới tháng thứ sáu, chú chính thức cứng cáp nên  được tự do đi lại, dưới sự hướng dẫn của bà mẹ. Từ nay chú không còn ở trong cái túi đen thui, nóng nực kia nữa, vì chú đã trưởng thành nghĩa là to gần bằng con gấu con rồi kia mà, đâu bé bỏng gì nữa.
 
Đại thử cái đẻ một con mà thôi, ít khi sinh tới hai, ba con một lượt, vì mỗi lần thụ thai cái túi ấy chỉ chứa được một con, nên phải chờ khi con thứ nhất lớn, thì đại thử mẹ mới tiếp tục đẻ con thứ nhì, thứ ba v.v...
 
Dù rất tinh mắt, thính tai, thính mũi, đại thử vẫn bị thợ săn bắn chết lấy thịt, nấu cháo nhất là món súp nấu bằng đuôi của nó ăn rất ngon. Còn bộ da dùng làm găng tay, ví, giầy, dép, thắt lưng, dây đồng hồ, bao thuốc... Ngoài ra, người ta lừa bắt đại thử bằng lưới, đoạn đem về nuôi và huấn luyện để làm trò trong các gánh xiệc vì nó hiền lành lại khá thông minh.
 
Trung bình, đại thử chỉ sống mười lăm năm mà thôi.
 
 
ĐẶNG HOÀNG      
(sưu tầm)            
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 44, ra ngày 25-6-1972)
 

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2025

Chị Ơi, Bạn Tệ Với Em


 Thư của em N N Y

Hỏi: ... Đầu năm học, mẹ em cho em vải để may 2 cái áo dài. Em đem đến nhà mẹ một người bạn em để may, tưởng là bạn thân thì khi tính tiền chắc sẽ được trừ phân nửa hoặc một phần. Dè đâu mẹ bạn em tính như tính với người ngoài. Chị nghĩ coi có tức không? Em thấy như vậy là gia đình nó xử với em như người ngoài, nên sang năm học mới em không ngồi cùng bàn với nó nữa. Không phải em tiếc số tiền, nhưng thấy cách cư xử đó, sao em ghét quá...

Trả lời:

Chị mong khi em đọc thư này, em chưa chọn chỗ ngồi cách xa người bạn của em. Nếu đã xẩy ra thì đó là một trong những hành động nông nổi mà em nên tiếc, trong cuộc đời.

Chị nhớ dạo bé, mỗi khi đi chợ mẹ chị lại dẫn chị đi theo, và gởi chị ở nhà một bà bạn bán hàng bánh mứt. Lần nào chị đến bà bạn của mẹ chị củng đều cho chị ăn bánh kẹo, ô mai lu bù. Có hôm bà đi vắng, con gái bà không cho chị ăn như mẹ của cô ta, chị giận lắm, thấy cô ta sao xấu tính ghê, có cả một nhà kẹo bánh mà lại kẹo với mình không mời mình ăn. Và chị nổi giận ghê lắm. May thay dạo đó, chị mới 7 tuổi. Vậy mà bây giờ nghĩ lại còn thấy mắc cỡ. Chị ước mong gia đình họ nghĩ rằng chị là đứa trẻ con, và đừng phán xét cả gia đình chị qua sự ăn lu bù một cách bất lịch sự như thế. Vì làm nghề hàng bánh, bà bạn mẹ chị phải bỏ vốn ra mua hàng, chịu biết bao phí tổn sở hụi, nếu bán được một phần lớn mới là kéo về được vốn, số lời chỉ là phần nhỏ, thì bà còn phải làm kế sinh nhai cho gia đình, hoặc dùng cho những việc ích lợi khác. Nay nếu các con của các bạn đều giống chị, kéo nhau đến ăn lu bù, ăn "chùa" như vậy thì không được mấy ngày cửa tiệm phải đóng vì hết hàng, và bà phải phá sản. Mà nhà buôn thì thường nhiều bạn bè quen biết, ai cũng tưởng chỉ có mình là thân nhất, và tự cho có quyền ưu tiên, chủ nhà sẽ chỉ phải đãi ngộ có mỗi mình thôi. Thực ra, những người biết điều bao giờ cũng trọng lẽ công bằng, không đòi ưu tiên. Đọc thư em, chị bỗng nhớ lại y hệt cái cảm giác ngày đó, khi thấy cô chủ tiệm đối xử với chị như vậy chị cũng định tuyệt giao luôn, không tới nhà cô ta nữa. Thế thì có tội nghiệp cho người ta không hở em. Bạn em còn đáng tội nghiệp hơn nữa em ạ. Khi không, em đến may đồ, nếu em không may thì người khác may, gia đình bạn em cũng thu về được số tiền đó. May áo cho em, bạn em không được gì hơn lại bị ghét bỏ. Bây giờ em nghĩ lại đi, nếu tất cả các bạn bè liên hệ đến gia đình đó đều đến may với mục đích bớt tiền công thì gia đình họ làm sao đủ sống. Họ cũng phải bỏ vốn ra mua cửa tiệm, mua đồ, mượn nhân công, rồi đóng thuế má, may xong cái áo, lấy được tiền nếu trừ hết các phí tổn thì cũng chỉ còn một phần nhỏ là tiền lời.

Nếu mình đòi bớt thì họ không còn đủ tiền trả các thứ phí tổn, và nếu nhiều người đòi hỏi như em thì họ sẽ bị lỗ lã mà đóng cửa tiệm mất em ạ. Bây giờ chị lại hỏi em nhé, em trách gia đình bạn, vậy có bao giờ em tự hỏi: "Mình đã làm được gì cho bạn chưa". Chị thấy cái khổ của mọi người là luôn oán hận rằng người khác không làm cho mình cái này, không giúp mình cái kia. Nhưng có bao giờ chịu hỏi xem là: "Mình đã giúp gì cho người ta?" Nếu luôn tìm xem mình đã làm được gì mà đòi được đãi ngộ, thì em sẽ công bằng hơn. Vậy tóm lại, chị mong em nghĩ thế này: Khi em đem đồ đến nhà bạn, là em muốn thay vì đem đến tiệm lạ, em đem công việc đến cho gia đình bạn, để giúp bạn đông khách hàng thế thôi. Không lợi dụng gì bạn cả. Còn gia đình bạn, họ sẽ tỏ tình thân bằng cách làm việc kỹ càng mau chóng và chiều ý em. Điều này thì người thợ có lương tâm nào cũng phải chu đáo. Chị nhớ xưa có đọc câu này: "Làm sao để sự hiện diện của mình là điều may cho người khác". Em ơi! Phải công bằng. "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" điều gì mình không muốn, đừng làm cho người khác. Nghĩ kỹ đi, đặt em vào địa vị bạn, em sẽ thấy bạn đáng thương xiết bao.


Chị ĐỖ PHƯƠNG KHANH     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 46, ra ngày 9-7-1972)

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2025

Anh Hùng Chạy Bộ Dã Tượng


Dã tượng là một võ tướng lực sĩ dưới trướng Hưng Đạo Vương. Thuở theo phò Hưng Đạo, ông là người rất được Vương thương yêu tín cẩn. Ông cùng với người nhái Yết Kiêu là một cặp bài trùng, góp rất nhiều công khó vào việc đánh đuổi quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi nhờ tài riêng của mình.
 
Theo huyền thoại, ngay từ nhỏ Dã Tượng đã nổi tiếng trong làng, là một đứa trẻ chạy bộ nhanh nhất. Cậu bé thường tổ chức với bạn bè những cuộc chạy thi băng qua những cánh đồng và luôn luôn cậu là người về nhất.
 
Nhờ thế, càng lớn tài nghệ Dã Tượng càng phát triển. Chàng đã chạy đua với ngựa và không bao giờ chịu thua. Chạy nhanh như vậy nhưng chàng không bao giờ biết mệt và chàng cũng tạo được một thân hình vạm vỡ, một sức khỏe vô địch.
 
Vì Dã Tượng có tài, nên tiếng tăm đồn đãi ngày một xa. Dần dà, chàng được Hưng Đạo Vương mến mộ và cho làm Bộ tướng, lúc nào cũng theo hầu cận bên cạnh.
 
Mỗi lần ra trận, Vương cỡi ngựa, Dã Tượng chỉ chạy bộ và lúc nào cũng vượt qua đầu ngựa. Khi xuất trận, giặc cưỡi ngựa xông ra, ông chỉ chạy bằng chân để đánh. Tên nào đánh không lại phóng ngựa bỏ chạy, ông chạy bộ đuổi theo và kéo lại bắt sống. Giặc phải nể sợ tài chạy bộ của ông.
 
Có lần Hưng Đạo Vương bị giặc vây khốn phải bỏ ngựa, ông đã tình nguyện làm ngựa cõng Vương chạy thoát khỏi vòng vây khốn của địch mà không hề biết mệt.
 
Những lực sĩ chạy bộ, chiếm giải vô địch ở các thế vận hội ngày nay chắc chưa hẳn đã hơn được Dã Tượng ngày xưa... Ngày xưa Dã Tượng đã đem tài riêng của mình ra giúp nước, nên tài của ông đã được nhắc nhở trong sử xanh, lưu truyền đến ngày nay... và ngày nay chúng ta mỗi lần nhắc đến tên vị anh hùng đó ta vẫn kính phục tài chạy bộ của Dã Tượng.
 
 
TRỊNH CÔNG TRUYỀN       
(sưu tầm)                  
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 48, ra ngày 23-7-1972)
 

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

Cá Mặt Trăng


Cá mặt nguyệt còn gọi là cá mặt trăng, người Pháp gọi là Poisson Lune, người Anh và Mỹ lại gọi là Sun Fish (cá mặt trời) và các nhà khoa học trên thế giới đã khai sinh cho nó cái tên MOLA - MOLA hoặc ORT HAGORISCUSMOLA.
 
Ta có thể nói rằng chưa có một loại cá nào có hình dáng đặc biệt như vậy : bề ngang tròn như quả ballon và bề dọc thì dẹp. Mới trông người ta chỉ thấy chiếc kỳ trên lưng dựng đứng và chiếc vi hậu chĩa xuống, ai cũng nói là cá mặt trăng không có đuôi.
 
Sự thật thì đuôi cá Mặt trăng đã làm thành một đường viền tuyệt xảo, bao quanh cả thân mình cụt lủn gần ngay khúc đầu "vĩ đại".
 
Cá mặt trăng không có vi bụng, chiếc vi bụng xòe ra như nan quạt bên cạnh những bộ phận phát sinh ra ánh sáng.
 
Những đêm tối, chỉ có ánh sao lấp lánh trên vòm trời, các ngư phủ ra khơi thường được trông thấy một hiện tượng lạ lùng : Cả một khoảng rộng nơi trùng dương, mặt nước lấp lánh ánh sáng như có một ánh đèn soi từ dưới lên.
 
Khi họ tới gần, nhìn trời nhìn nước chỉ thấy một vùng ánh sáng đang di chuyển một cách nặng nề.
 
Họ thả lưới và bắt được dễ dàng vì nó bơi thật chậm chạp. Nó cũng không kháng cự để cho các ngư phủ bắt.
 
Đám ngư phủ hò nhau kéo lên thuyền, ánh sáng trên mặt nước cũng vụt biến mất. Họ cùng nhau ngắm xem con cá lạ. Hình nó giống mặt trăng và đầu nó tỏa ra ánh sáng huyền ảo trên mặt nước nên họ đặt cho nó cái tên thông thường là  : cá Mặt trăng.
 
Cá Mặt trăng, thật là nôm na dễ hiểu, nhưng người ta lại muốn "thi vị hóa" cho nó cái tên là cá Hằng Nga.
 
Loại cá này đặc biệt là đầu nó cân nặng cả hàng trăm ký mà bộ óc chỉ cân được không quá 4 lạng.
 
Người ta chưa thể nào giải thích được tại sao một loài cá bơi thật chậm chạp, nặng nề mà lại không có một thứ "vũ khí" nào để tự vệ, lại sống ở vùng biển khơi, chỉ thích hợp với loại cá xá, cá mập hay loại cá viễn du.
 
Nó thích sống đơn độc một mình, ít khi người ta gặp một cặp cá MẶT TRĂNG.
 
Họa hoằn lắm cá mới lân la vào gần bờ. Lần đầu tiên, vào mùa thu năm 1885 Hoàng thân Monaco Albert I bắt được mấy con ở vịnh Gasconge. Tới mùa thu 1912 các ngư phủ Pháp bắt được 1 con ở gần bờ biển Manche và năm 1921, người ta cũng gặp nó xuất hiện ở gần bờ biển Thái Bình Dương.
 
Một nhà bác học Anh đã nhận xét cá Mặt trăng ở miền nhiệt đới lại có màu sắc tuyệt đẹp. Nhìn những màu sắc lộng lẫy của con Lamprisluna, người Pháp thường gọi là "Opah" nhà bác học đó đã nói rằng: "Cá khoác lên mình bộ lễ phục sặc sỡ của bầy tiên múa khúc nghê thường trên Cung Quảng".
 
 
HẢI LY      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 46, ra ngày 9-7-1972)
 

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2025

Cặp Kính Cận


Linh tức quá nói to hơn:
 
- Bọn bay, tao về nói Má đó nghe.
 
Quả thật câu nói đó có vẻ linh nghiệm nên bọn nhỏ đều rút hết. Bây giờ Linh mới thấy khỏe khắn hơn, Linh dỡ đôi kính cận thị ra lau chùi vì đầy mồ hôi nhễ nhại. Cũng bởi cái kính này mà bọn nhỏ mới chọc, nhiều lần Linh muốn bỏ đi nhưng chợt nhớ lại cục u trên đầu là Linh không dám bỏ. Có một lần vì tức bọn nhỏ, Linh liền bỏ đôi kính ra và đi lần lần ra cửa, bỗng Linh thấy mình đang "so tài" với cột nhà, chớp nhoáng đầu Linh đã có một cục u rồi. Thế là bọn nhỏ lại chọc thêm cho nên đến bây giờ Linh không dám bỏ đôi kính nữa.
 
Lúc đầu chỉ có một mình thằng Long, nhưng sau đó đến thằng Lân, rồi con Liên, chúng đều cùng một âm thanh: "Bà Bác-Sĩ". Cứ thể, hễ vắng mặt Ba Má Linh là bọn nó lại chọc. Linh nghẹn ngào tức tưởi mà không làm gì được, mỗi lần Ba Má về là Linh liền đem câu chuyện này ra nói nhưng Ba Má Linh đều bỏ qua cả. Cho đến một hôm, Linh đang rửa mặt thì bọn nhỏ lại lẻn vào giấu kính, khi rửa xong sờ soạng không thấy kính đâu, Linh hốt hoảng đi tìm nhưng không được bèn gọi người giúp việc dẫn ra dùm. Rồi câu chuyện này được Linh trình bày cho Ba Má, thế rồi các "anh chị" sau của Linh đều được hưởng bánh tét bằng mây của Ba Linh tặng, lại thêm phần quỳ gối nữa đó, được dịp may Linh cứ đi qua đi lại để chọc mà trả thù. Kìa bộ mặt của con Liên vui chưa, cái miệng méo xẹo, chỉ có thằng Long thằng Lân mới anh hùng, vẻ mặt hầm hầm của chúng làm Linh phải khiếp sợ...
 
Một buổi sáng, Linh vừa bước dậy đi lấy kính thì vấp phải một cái ghế của ai đặt tự bao giờ, đầu của Linh đánh xuống nền gạch, vài tiếng cười lại khúc khích nổi lên và Linh thiếp vào hỗn loạn.
 
Đợi lâu rồi mà không thấy Linh ra, thằng Long bèn mở cửa bước vào thì...
 
- Ba Má ơi, chị Linh sao vậy nè.
 
Nghe tiếng la của Long, Ba Má hốt hoảng chạy vào, trong lúc đó thằng Long, thằng Lân sợ cuống đit vì tội của mình.
 
Khi Linh tỉnh dậy, Linh thấy đang nằm giữa bốn vách tường sơn trắng, Linh đưa hai tay lên đầu thì thấy quấn một lớp băng. Một tiếng động nhỏ vang lên làm Linh nhổm đầu ngồi dậy nhưng không tài nào ngồi được. Linh choáng váng mặt mày nhớ lại hồi sáng. Tiếng nói của Ba Linh cắt ngang trí của Linh:
 
- Đỡ chưa Linh, có Ba và mấy em con vào thăm con nè.
 
Linh bèn mở mắt ra nhìn Ba, nhìn mấy đứa em, đứa nào cũng buồn rầu, duy chỉ có con Liên là đôi mắt đỏ hoe. Linh bèn gọi mấy đứa em lại và bảo:
 
- Các em thấy hậu quả do các em gây ra chưa.
 
- Dạ thấy.
 
Tiếng của thằng Long lại vang lên:
 
- Chúng em xin lỗi chị và hứa là không bao giờ chúng em chọc chị nữa.
 
Linh sung sướng ôm các em vào lòng mà hôn, bây giờ Linh mới thấy tình chị em thật là thắm thiết.
 
Đầu phòng, Ba Linh lại nở nụ cười sung sướng trên khuôn mặt héo hắt già nua.
 
 
MÂN LINH         
(Bồ Đề Đà Nẵng)     
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 49, ra ngày 30-7-1972)
 

Thứ Hai, 14 tháng 7, 2025

Hồn Học Trò

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
(Gởi em đó, Cỏ Tím)

Giữ mắt trong hoài nhé bé thơ
Ngàn cây xếp lá tự bao giờ
Bé nghe không gió về nhắn nhủ
Lời thiết tha cho hồn ngây thơ.
 
Bé có nhặt hoa chiều lang thang?
Gió mây nhốt mấy cụm hoa vàng?
Bên trường bé cổng vôi cổ kính
Chân non ngại bước nỗi gian nan
 
Chim nhỏ trú chân giữa ngọc ngà
Bé cười môi thắm nét kiêu sa
Hoa mới nở mau ra ngắt lấy
Ép giữa giấy trong hồn thiết tha.
 
Nét chữ ngoan với màu mực xanh
Ngủ yên giữa giấy trắng muôn tình
Tay bé mềm xinh như bông bưởi
Màu giấy chậm hồng nét nguyên trinh.

Tay quen cầm bút bé chép bài
Hồn nghe lời giảng với ngất ngây
Nụ hoa nở giữa lòng thanh khiết
Giữ hoài bé nhé tuổi thơ ngây.

                                          CỎ BIẾC
                                          (bn Hoa Tiên)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 48, ra ngày 23-7-1972)
 

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2025

Ngày Hè


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Còn trong tuổi Thiếu Nhi
Ấu thơ chưa biết gì
Hè về vui mừng lắm
Chẳng ngập ngừng chia ly

Đường phố đi lang thang
Mặc cho tiếng ve than
Với hoa phượng đỏ thắm
Tuổi nhỏ la hét vang

Rồi một ngày không xa
Với bầu trời trưa hạ
Nghe ngậm ngùi nuối tiếc
Tuổi đời đầy trong ta

Ngày thơ đã đi rồi
Nhìn lại thấy xa xôi
Nỗi buồn thêm lắng đọng
Như mây thu trong trời!...

                                    HBON
                                  (Tháp Chàm)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 42, ra ngày 11-6-1972)
 

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

Hối Hận

 
Thằng Thành vừa đi song song với tôi ra cổng trường, miệng nó tía lia:
 
- Tao đoán đâu có sai, "ổng" ăn hiếp mình quá hả mày!
 
Tôi bực dọc đá viên sỏi trên lối đi:
 
- Mày nói tiếng nữa coi chừng tao à.
 
Tôi nói như thế chứ Thành "tả oán" vậy cũng không phải là vô lý (tôi nghĩ vậy) vì hai giờ Việt văn của Thầy Lương, tôi và một số các bạn khác trong đó có nó phải bất đắc dĩ nghe một bài đại luận dài gần hai trăm trang, nào là ngu như lợn, lười như sên, để rồi kết luận bằng hai con "dê rô" to tướng.
 
Đó là hậu quả của cuộc du hí trong rạp hát ngày chủ nhật rồi quên làm bài.
 
Thế nên tôi oán thầy Lương, oán những bài soạn mà thầy cho và oán luôn cả ngày thứ hai trong tuần, cái ngày thứ hai "xui xẻo" ấy nó làm cho tôi phải phập phồng lo sợ, ngồi xuống ghế lại bật ngay dậy như ngồi phải cục than hồng trong đó có chứa đựng cặp mắt khủng khiếp của thầy Lương. Cầm viết nắn nót được hai chữ bình giảng tôi tưởng chừng như làm xong một việc nặng nhọc đến toát mồ hôi. Không phải tội.
 
Tiếng thằng Thành vang lên:
 
- "Ổng" mà biết mình nói thầm thì tức lắm chứ chả chơi đâu.
 
Tôi cười nhẹ như biểu đồng tình.
 
- Thôi tới làm một ly cho đỡ khát.
 
Ly nước mát lạnh làm cơn tức của tôi nguôi dần.
 
Bỗng thằng Thành hích cùi chỏ:
 
- "Ổng" kìa mày!
 
Thằng Thành nói lớn quá làm thầy Lương nghe thấy, thầy quay lại, tôi tưởng ít nhất cũng một cái xoắn tai rồi lên văn phòng lãnh giấy cấm túc. Tôi rủa thầm:
 
- Cái thằng đần độn này mày hại tao rồi!
 
Nhưng may thay, thầy Lương chỉ quay lại, đóng cái cặp mắt sắc như "mã tấu" vào giữa mặt làm tôi choáng váng tưởng chừng như cả một tấn sắt áp vào.
 
- Đỡ quá mày, tao cứ tưởng...
 
- Tưởng con khỉ, lát nữa coi chừng có giấy mời lên văn phòng đó.
 
Thằng Thành trả tiền xong kéo tôi vào chỗ vắng nói nhỏ:
 
- Tao nghĩ mình nên kiếm cách chơi "ổng" một vố.
 
Tôi tán thành và nó đưa ra nhiều ý kiến nhưng đều bị tôi bác bỏ vì hành động là lộ tẩy ngay, ý kiến của thằng "ngu si" ấy nó cũng "ngu si" nốt, cuối cùng tôi "nặn óc" mới ra. 
 
Tối chúa nhật đi qua, sáng thứ hai trở lại với tôi, cái ngày thứ hai có biệt danh là "thứ hai kinh khủng" ấy đem lại cho tôi nhiều nỗi lo âu lẫn khoái trá vì sắp được trả thù!
 
Trong suốt thời gian ấy thằng Thành hết hích cùi chỏ, lại nháy mắt cười ruồi có vẻ thích thú.
 
Tiếng ồn ào bỗng im bặt, chỉ còn nghe tiếng nói nho nhỏ:
 
- Ê! Ổng vô kìa.
 
Dáng người nhỏ thó xuất hiện ở ngưỡng cửa.
 
- Nghiêm!
 
Thầy vừa vẫy tay vừa bước tới.
 
- Thôi các em ngồi xuống...
 
Tiếng "xuống" vừa dứt thì người thầy Lương chao đi lảo đảo, cuốn Việt văn và cặp kính cận cùng rớt ra một lượt. 
 
Sau giây phút ngạc nhiên cả lớp bỗng cười rộ lên, mà trong số đó có hai kẻ cười to nhất, thì ra ai đã quái ác đặt cây thước bảng giữa lối làm thầy Lương phải lãnh đủ, kẻ đó không ai xa lạ mà chính là tôi, tôi đặt cây thước giữa lối đi khi thấy bóng thầy Lương thấp thoáng ở phòng giáo sư. Lượm cặp kính lên cùng cuốn sách, thầy Lương trịnh trọng đeo vào và đảo mắt xuống phía dưới, cặp mắt sắc như dao ấy dừng lại giữa mặt tôi.
 
- Trò nào?
 
Cả lớp im phăng phắc, tôi vẫn phớt tỉnh "ăng lê" nhưng trong lòng bấn loạn vô cùng. Thầy nhìn tôi một lúc lâu rồi bước lên bục gỗ nói:
 
- Các trò coi chừng tôi.
 
"Coi chừng tôi" có nghĩa là sẽ dồn sự tức giận vào bài vở mà thầy sắp cho, liên tiếp sẽ là cú đầu, xoắn tai, sẽ là ngu như lợn v.v...
 
Quả nhiên thầy Lương ra lệnh:
 
- Lấy vở ra chép bài.
 
Thầy gỡ cặp kính bước xuống bàn, bỗng thầy bước vội lên bàn chụp cặp kính đeo vào và đảo mắt nhìn lên bảng.
 
- Trò nào viết hàng chữ này?
 
Lại một trận cười ròn rã vang lên, tác giả hàng chữ này chính là thằng Thành, nó nắn nót từng chữ to tướng:
 
Ông Lương bốn mắt hai mày
Dáng đi lạch bạch như bày vịt xiêm
 
Sau bữa đó thầy Lương phải cực khổ đẩy chiếc xe đạp lép kẹp cả hai bánh mà đi kiếm chỗ bơm, mỗi lần như vậy, hai thủ phạm đứng cuối sân chơi cười khúc khích.
 
Lần sau tôi bỗng chú ý đến chiếc xe honda dame cũ rích của thầy Lương, vì cả một bộ máy rắc rối có thể hư hại nặng chỉ vì một vật nhỏ bé như cát hay hạt muối.
 
Muối là một chất mặn có thể làm rỉ sét các chất kim loại, thế là ra rồi, tôi cũng la lớn "ra rồi, ra rồi" như Archimède ngày xưa vậy. Thế là tôi sẽ tà tà bỏ vào bình xăng xe của thầy Lương một nắm muối và thầy sẽ lãnh đủ cái hậu quả tai hại của những "hồng ân" mà thầy đã "ban" cho tôi ở những ngày đã qua, tôi không ngờ mình thông minh quá, tôi học cái ý kiến cho thằng Thành biết, nó khen lấy khen để, nó còn nói:
 
- Mày phá hoại kiểu khoa học.
 
Tiếng ồn ào trong lớp càng ồn ào thêm khiến tôi khó chịu. Sở dĩ có trường hợp "bất trị an" như vậy vì sau khi tôi bỏ muối vào bình xăng xe của thầy Lương, máy hư mà thầy không có tiền sửa nên thầy phải đi dạy bằng xe lam, mỗi ngày thầy trễ ít nhất phải là hai mươi phút, có lần vào trễ thầy bị ông hiệu trưởng kêu lên văn phòng, lúc trở xuống mắt thầy đỏ hoe.
 
Bắt đầu từ lúc ấy tôi mới thấy cái xót xa nó thấm thía vào tâm hồn khi nhìn thấy ánh mắt thống khổ của thầy Lương, ánh mắt thầy nó chỉ chứa đựng một sự chán nản và buồn thảm. Cái ngày "thứ hai kinh khủng" được trí óc tôi đảo ngược lại là "thứ hai buồn thảm". Ánh mắt thầy đi chung với ngày thứ hai ấy.
 
Bỗng dưng tôi thấy thương thầy vô hạn (tôi không phân biệt được thương thầy với lòng thành hay là thương hại), nhất là nghĩ đến bài luận văn mà thầy phát ra có phê hàng chữ:
 
Rất khá! Có tiến triển.
 
Thì ra thầy nào có ác ý với tôi đâu, thế mà tôi cố tình ám hại thầy.
 
Tôi có thể làm thế chăng? Tôi có thể đang tâm thù hằn một kẻ đáng gọi là cha, kẻ đã dạy tôi biết làm bình giảng, biết sáng tác ra một đoạn văn. Bây giờ tôi đã hối hận, thốt ra hai tiếng hối hận tôi cảm thấy trút được một phần gánh nặng tâm hồn, phần còn lại đến bây giờ tôi chưa trả được.
 
Bây giờ tôi không cần biết thầy Lương có ác cảm với tôi không mà chỉ cần biết đã có thêm một kẻ biết được cái tình thầy trò thiêng liêng cao quý nhất. 
 
Kính dâng hương hồn của một người thầy đã khuất núi, và gởi những ai đã oán thầy, đang oán thầy và sắp oán thầy.
 
 
PHẠM VĂN ĐỨC      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 94, ra ngày 17-6-1973)
 
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>