Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

CHƯƠNG II_CHÚ BÉ LÊNH ĐÊNH



CHƯƠNG II
 
 
Từ một đứa bé đang sống trong một ngôi nhà bốn từng, một cái vườn rộng, một khu xưởng thợ to lớn một nơi đã từng được tôi tưởng tượng là thế giới riêng rẽ của Tạc Dăng đến hôm nay lại phải chui rúc ở căn nhà chật hẹp, ẩm thấp, tối tăm, dơ bẩn nằm trong con hẻm của đường Năng-xy này, tôi biết không còn gì hy vọng giữ lại những nguồn vui đã qua.
 
Thằng Cu Nghé đã xa tôi, bây giờ đến lượt con két xa tôi, còn ai nữa mà chơi với tôi chứ ?
 
Tôi đã xa tất cả và tất cả đã xa tôi.
 
Cha tôi đưa chúng tôi về căn nhà đó, tất cả đều có cảm tưởng như bị xô đẩy vào ngục tù.
 
Bộ mặt tráng lệ của Saigon đã che đậy những ổ chuột và nhà tôi là một trong những ổ chuột đó. Cái sân sũng nước, cái gác ọp ẹp, vách ván, mái tôn, không cửa hậu, không cửa sổ, ra vào chỉ độc có cửa chính như chui qua cửa hang. Người hàng xóm ở đối diện là anh thợ đóng giày, mình mẩy lúc nào cũng nhầy nhụa mồ hôi ; và bên cạnh là tiệm chạp phô ở đối diện với cái giếng bơm nước… Thực là kỳ cục, sự sắp đặt nhà cửa trong xóm này không hề theo một tổ chức, trật tự nào cả, ai muốn làm gì thì làm. Nhiều cái nhà lấn hết nửa con hẻm, thành thử con hẻm càng ngày càng chật và quanh co.
 
Hôm mới đến, cảm giác đầu tiên của tôi là như lạc vào mê hồn trận. Tôi băn khoăn không biết làm sao nhớ hết những lối đi ngoằn ngoèo và những số nhà phức tạp, dài dòng, chồng chất số này trên số kia.
 
Mấy đứa trẻ quanh xóm, thấy chúng tôi, mắt đứa nào đứa nấy thao láo, miệng mồm há hốc, đứng ở cổng nhìn vào như nhìn một đoàn xiếc dạo… Ôi, kể làm sao cho hết những nỗi bực mình. Đã thế, khi bà già An dọn dẹp dưới bếp, bỗng hét lên :
 
- Ối ! Ối ! Gián !
 
Bà làm như cháy nhà đến nơi không bằng, nhưng cả nhà chỉ nghe hét chứ không nghe nói vì tiếng hát ở máy thu thanh khắp nơi đã làm át đi. Tôi không hiểu họ thưởng thức âm nhạc bằng kiểu gì mà lạ vậy ? Ở đâu cũng mở máy lớn, léo nhéo suốt ngày, chỗ thì vọng cổ, chỗ thì tân nhạc, chỗ thì nhạc ngoại quốc,,, Đúng là một cuộc đại hoà tấu “Tả-Pí-Lù”, đinh tai, nhức óc và điên đầu.
 
Tuy nhiên, những thứ ấy, lâu dần rồi cũng quen đi, chứ không như loài gián, cái loài thực khó chịu, bay đáp vào mặt, vào tay , nhột nhạt bắt rởn da.
 
Và đúng như bà già An đã phát giác, nhà tôi bị nạn gián khủng khiếp ấy. Chúng nó xuất hiện khắp các ngõ ngách, trên tường, trong hộc tủ, trên bếp, trên cũi đựng đồ ăn, mặc dù bà An đã cố gắng đập chết rất nhiều và nhét kín lỗ then cửa là nơi chúng nó trú đóng để làm những cuộc hành quân phong tỏa qui mô. Nhưng vô ích, chúng nó chỉ chịu thua một hôm. Hôm sau chúng nó vẫn tái diễn, vẫn kiếm cách bò ra và bay lung tung, không một ai trị được.
 
Cứ thế, chúng tôi bỗng trở thành những tay sát sinh rất cừ, thấy gián là giết, ấy vậy mà chúng nó vẫn còn, không hiểu chúng nó kéo nhau từ đâu đến mà nhiều đến thế. Tôi ước gì có một bầy thạch sùng để nghinh chiến với chúng nó.
 
Tôi nghĩ, loài người thường tự hào đóng vai bá chủ nhưng không diệt được loài gián là nghĩa làm sao ? Tôi bắt đầu có ác cảm với Saigon vì loài gián ấy và từ đấy tôi có ấn tượng xấu về Saigon vì dân Saigon thường chế giễu chúng tôi nói con cá rô ra con cá “gô”. Họ bất lịch sự quá. Họ đã làm chúng tôi thay đổi nếp sống xưa cũ. Buổi sáng mới 5 giờ đã om sòm tiếng rao quà vặt và tối lại họ thức quá khuya, xe cộ chạy ầm ĩ, guốc dép khua động ồn ào, chó sủa suốt đêm. Tội nghiệp nhất là bà già An, mỗi khi đi chợ đều bị trả hớ. Họ nói thách không biết đâu mà mò giá cả.
 
Tôi luôn luôn có cảm giác là mọi người đang rình rập để hại nhau. Mỗi người đều mang một bộ mặt xa lạ, đáng ghét. Có lẽ họ biết chúng tôi ở dưới quê mới lên và vì thế mà chúng tôi buồn.
 
Chúng tôi sống trong sự cô độc đó. Thỉnh thoảng, gia đình chúng tôi rủ nhau xuống bờ sông Saigon hóng gió, đi dọc theo bờ sông và hướng về phía Châu Đốc.
 
Mẹ tôi buồn bã nói :
 
- Chỉ có xuống đây mới thấy gần gũi quê hương mình trong chốc lát mà thôi. Nhưng thực ra, những lần đi chơi như vậy cũng chẳng đem lại thú vị gì cho ai cả.
 
Mẹ tôi vẫn giữ nét buồn bã.
 
Cha tôi thì mang thái độ hằn học.
 
Anh Giác tôi thì khóc, không biết anh ấy khóc vì nhớ nhà hay vì sợ đám đông đang vây bọc chung quanh, toàn là người lạ.
 
Còn tôi thì muôn đời vẫn lủi thủi nối gót theo sau mọi người, không dám ngước mặt lên – không hiểu sao ở đây, mỗi khi ra đường tôi cảm thấy thèn thẹn. Tôi mang cái mặc cảm chúng tôi đều dốt nát, quê mùa và nghèo hèn. Cái gì đối với tôi cũng bí mật, nhưng không dám tò mò hỏi ai cả. Tôi sợ hỏi ra chẳng những không được giải thích mà còn bị chế riễu kiểu bà già An hỏi mua chai bia liền bị người chủ quán hỉnh mũi lên cười, ý hẳn người chủ quán chỉ biết la-ve chứ không biết bia, trừ thứ bia-lây. – Ôi, thật là nhiêu khê, đến cái tên món đồ cũng không biết gọi thế nào cho đúng.
 
Thôi thì đành im lặng vậy.
 
Nhưng im lặng rồi cũng nguy hiểm như lần tôi vào tiệm hớt tóc, người thợ hỏi : - Cậu muốn hớt kiểu gì ?
 
Tôi lúng túng và không trả lời.
 
Cuối cùng người thợ cũng phải chịu khó hớt xong cái tóc của tôi và kết quả là đầu tôi trọc như một anh lính Nhựt.
 
Tôi ngượng chín cả người.
 
Thế rồi, một tháng sau, bà già An bỗng lâm bệnh. Khí hậu ở Sàigòn hình như không phù hợp với những người già cả và bà già An bệnh mỗi ngày mỗi nặng, ai cũng sợ bà chết, nhưng không phải sợ bà chết rồi sẽ không kiếm đâu ra người giúp việc, chúng tôi chỉ sợ là không có đất để chôn.
 
Ở Sàigòn này, sống cũng khổ mà chết cũng khổ. Người sống kiếm không ra nhà ở, có nhiều gia đình phải ở chung một nhà với những gia đình khác. Mỗi lần nhìn vào một cái nhà được ngăn làm nhiều căn phòng bằng những tấm vải nhựa, trong ấy lúc nhúc trẻ con, người lớn, đồ vật chồng chất ngổn ngang, tôi có cảm tưởng loài người vẫn còn sống ở thời kỳ bán khai. Tuy nhiên, thế vẫn còn sướng hơn người chết. Mỗi lần có người chết là y như mỗi lần phải chạy áp-phe để tìm một lỗ huyệt, bất kể tốt xấu, nhiều khi đào huyệt đúng ngay cái mả cũ, ván hòm hãy còn nguyên nên mùi tử khí hãy còn xông lên hăng hắc.
 
Trường hợp này đã làm tôi tủi thân vì nghĩ một ngày nào đó mình cũng phải chịu rơi vào số phận đó, và chắc mọi người cũng đều nghĩ như tôi vậy nên tức tốc chở bà già An về quê mặc dù bà ta rất mến mẹ tôi.
 
Hôm đưa bà An xuống tàu về Châu Đốc, bà cứ nằng nặc đòi ở lại và hứa sẽ không chết. Bà An làm như sự chết sống đều do bà quyết định không bằng. Ấy vậy mà bà An không chết thực, dù bà không được ở lại với chúng tôi và về đến Châu Đốc được ít lâu thì bà có chồng. Nghe đâu vợ chồng bà An phải sống chật vật lắm. Nghe vậy, tôi càng thương bà ta nhiều hơn.
 
Lúc nào tôi cũng nhớ đến bà An. Sự vắng mặt của bà An trong gia đình chúng tôi không như tôi phải xa thằng Cu Nghé nên ai cũng luyến tiếc, nhắc nhở. Vả nữa, bà An đi rồi là mẹ tôi phải lo việc nấu nướng, suốt ngày quanh quẩn trong bếp, tay chân đen đủi, không còn thì giờ săn sóc tôi nữa. Còn anh Giác thì phải đảm đang công việc lặt vặt trong nhà. Cha mẹ tôi sai bảo anh đủ chuyện, giao cho anh cái thúng nho nhỏ, bảo bưng đi mua thứ này thứ nọ và lẽ dĩ nhiên là anh vừa đi vừa khóc. Tôi trông anh đần độn thêm ra và bắt đầu từ đó, chắc chắn là anh không có một phút vui sướng nào.
 
Cha tôi thấy anh sụt sùi mãi lại đâm bực. Ông gắt gỏng, đánh đập anh y như đối với một đứa con ghẻ trắc nết nên bị hất hủi.
 
- Giác ! Giác ! Ông hét lên. Ngu ơi là ngu. Sao mày ngu thế ? Đồ vô tích sự…
 
Do đó, mỗi khi thấy cha tôi là anh đã khiếp sợ, tìm cách lẩn trốn, cố giữ nước mắt không trào ra, nhưng càng cố gắng như thế trông anh càng thiểu não hơn và trở nên lừng khừng, thảm hại.
 
- Này Giác ! Một hôm mẹ tôi gọi. Hôm đó mọi người đang ngồi vào bàn ăn khi trong bình chưa chế nước – Con chịu khó chạy xuống bếp xách ấm nước chế vào bình để tí nữa ăn xong có nước uống, đi con !
 
Anh Giác sốt sắng :
 
- Dạ !
 
Nhưng cha tôi vội cản lại :
 
- Bảo thằng Giác đi xách ấm là nó đập ấm cho mà coi.
 
- Cái ông này… Ý hẳn mẹ tôi muốn trách cha tôi sao quá nghiêm khắc, rồi quay sang anh Giác, ôn tồn :
 
- Nhớ cẩn thận, nghe con !
 
Cha tôi cười chế riễu :
 
- Vô ích, dù bà có năn nỉ đừng làm bể, nó vẫ làm bể như thường.
 
- Thế nghĩa là ba muốn con làm bể ? Anh Giác đứng lại và ngớ ngẩn hỏi.
 
- Sao mày ngu thế hở ? Cha tôi lại quát. Tao có nói muốn mày làm bể cái ấm bao giờ đâu ? Tao chỉ sợ mày làm bể cái ấm thôi ! Ông nhấn mạnh và kéo dài câu này.
 
- Dạ, con hiểu ! Anh Giác trả lời. Giọng anh run run. Chắc trong anh đang mang ý nghĩ : “Ừ, quả mình ngu thực. Cha mình đã sợ tức biết trước sau gì mình cũng làm bể cái ấm… “. Nhưng vẫn xuống bếp. Anh lững thững như người mất hồn và hai phút… năm phút… mười phút… anh ở biệt luôn dưới.
 
- Lạ chưa ! Mày làm gì ở chết dưới ấy hở Giác ? Mẹ tôi cũng bắt đầu đâm bực.
 
- Thì tôi đã bảo, còn không nghe. Bà xuống dưới xem nào… Mà thôi, để tôi đi cho.
 
Tôi biết, tuy nói vậy, nhưng cha tôi cũng nóng ruột. Có lẽ chẳng những ông sợ anh Giác đập bể ấm mà còn sợ anh ấy bị phỏng nước sôi nữa là đằng khác.
 
Trên nét mặt ông, tôi bắt gặp thoáng chút hối hận.
 
Ông vội vã xô ghế đứng dậy rồi đi thẳng về phía bếp.
 
- Giác ! Giác ! Cha tôi gọi.
 
- Dạ… Tiếng “Dạ” ngập ngừng phát ra từ kẹt cửa.
 
- Thế nào, mày làm bể ấm rồi hả ?
 
- Dạ ! Anh Giác lại dạ.
 
- Ra đây tao bảo !
 
- Dạ ! Anh Giác riu ríu vâng lời.
 
Tôi tưởng lần này anh Giác sẽ bị trận đòn đau ; ngược lại, cha tôi chỉ nhìn anh như xem xét một đồ vật rồi lắc đầu ngao ngán :
 
- Bà thấy không, tôi nói không sai… Ông nói với mẹ tôi. May là nó không bị phỏng nước sôi.
 
Và câu chuyện này bỗng thành một huyền thoại trong nhà.
 
Cứ thế, gia đình chúng tôi ở Sàigòn với nhịp điệu buồn tẻ ấy, không ai biết chúng tôi là ai. Ở đây hình như mọi người chỉ biết có tiền. Cựa đến cái gì cũng tiền. Đồng tiền trên cửa miệng. Đồng tiền trên tay. Đồng tiền ở khắp các ngõ ngách. Đến nỗi ai mà nói đến chuyện nhân nghĩa đều bị coi là kẻ dại dột nhất.
 
Do đó, tuy lên Sàigòn đã hai tháng mà cha mẹ tôi vẫn chưa đề cập đến việc cho tôi và anh Giác đi học. Sàigòn có nhiều chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy đó. Đáng lẽ chỗ đô hội, văn minh có nhiều phương tiện, nhất là phương tiện học vấn cho con em thì ngược lại, vô trường công phải có đủ điều kiện tuổi tác, hoàn cảnh gia đình, nộp đơn sớm v.v… toàn những phiền phức rắc rối, nên chẳng mấy ai được hưởng quyền lợi đó. Đã thế, trường công lại ít. Có trường lại không có đủ phòng để chứa học sinh nên mới có cảnh nhiều lớp phải học chung một phòng bằng cách chia ra nhiều “suất”, kể cả suất trưa. Ai mà có con em đi học suất trưa là kể như phải lo thuốc trước vì mất ăn, mất ngủ, đi dưới nắng trưa từ nhà đến trường làm sao trẻ nhỏ không bệnh ? Còn vào trường tư thì tương đối được dể dãi hơn, vệ sinh hơn nhưng phải đóng học phí và phần đông lại nhằm mục đích thương mại hơn là giáo dục.
 
Cuối cùng, một giải pháp rất thích hợp được cha mẹ tôi nghĩ đến và thực hiện là gửi tôi cùng anh Giác vào ký nhi viện.
 
Lẽ dĩ nhiên, ký nhi viện không phải là trường học. Suốt ngày chúng tôi chỉ tập hát, được dạy bảo một vài phép tắc xã giao, lễ độ thông thường rồi chơi. Thực không có gì sướng cho bằng, tôi nghĩ vậy. Trong trí óc non nớt của tôi, tôi mong rằng được ở đây suốt đời để khỏi bị nhét vào đầu những chữ nghĩa rắc rối, những con toán khúc mắc, nhưng khổ nỗi ước muốn ấy lại bị cắt đứt nửa chừng ! Một người bạn của cha tôi làm hiệu trưởng một trường trung học, không biết đã can thiệp bằng cách nào mà gửi thư cho biết vừa giành một học bỗng tại trường công lập Sàigòn để giúp đỡ tôi hoặc anh Giác.
 
Được tin này, cha mẹ tôi mừng lắm.
 
Cha tôi quyết định. Ông nói :
 
- Học bỗng này cho Lênh Đênh hưởng.
 
- Còn thằng Giác ? Mẹ tôi phân vân.
 
- Thằng Giác hả ? Ồ… thằng Giác ngày trước đã có tới trường chút đỉnh rồi mà. Vả nữa, bây giờ tôi cần nó ở nhà giúp đỡ công việc. Nó vậy chớ xem ra có khiếu thương mại đấy. Tôi sẽ huấn luyện nó trở thành một nhà doanh thương…
 
- Ông nói sao ? Mẹ tôi mở tròn mắt, ngạc nhiên. Thằng Giác mà có khiếu thương mại ?
 
- Chớ còn gì nữa ? Bà cho tôi nói bậy à ? Tự nhiên giọng cha tôi hơi gắt.
 
- Ờ nhỉ ! Mẹ tôi đâm hoảng vì ý nghĩ đã chạm đến tự ái cha tôi. Kỳ thực bà không hiểu cha tôi xét đoán thế nào mà tuyên bố như vậy.
 
Còn tôi, tôi lại nghĩ chắc tại anh Giác nhiều nước mắt và chắc nước mắt có nghĩa tương tự với hai chữ thương mại nên thay vì nói có khiếu nước mắt, cha tôi nói có khiếu thương mại. Và chuyện ấy không dính dấp gì đến tôi. Điều mà tôi đang lo là phải đến trường với cái áo bà ba và quần đùi. Ở Sàigòn, trẻ con đến trường đều mặc sơ-mi, quần soọc ; chỉ có bọn đánh giày, bán cà rem hay trẻ con lang thang ngoài đường mới ăn mặc lôi thôi. Khổ nỗi, ngoài bộ đồ ấy, tôi lại không còn một bộ đồ nào khác lành lặn hơn.  Thế là, dù có lo lắng đến đâu cũng không có cách gì để khỏi mặc cái áo bà ba với cái quần đùi kỳ cục ấy. Khi vào lớp, học trò đã nhìn tôi như nhìn một hiện tượng quái gở. Tôi biết là tôi đã thành một đề tài ly kỳ, đáng khai thác.
 
- Kìa nó mặc áo túi ! Chúng nó khúc khích, thầm thì với nhau. Cả đến ông thầy, trong ánh mắt ông hình như cũng nói lên câu đó. Tôi chắc ông đã thấy sự nghèo khó của gia đình tôi qua chiếc áo nên không dấu được cái nhăn mặt chua xót. Và ông giám thị thì lại luôn luôn tỏ vẻ khó chịu, nếu không nói là có ác cảm. Lúc nào ông cũng gọi tôi : “Ê ! Chú kia ! Chú bé Lểnh Đểnh”, Mặc dù tôi đã cố gắng nhiều lần, lễ phép thưa : “Dạ thưa thầy, con tên là Lênh đênh !”
 
- Lênh Đênh hả ? Ông nói lại rồi cười hô hố. Lênh Đênh, Lểnh Đểnh cũng rứa, có gì mà cải chính.
 
Do đó, học trò đều gọi tôi là “Chú bé Lểnh Đểnh”. Tôi nghĩ mà giận cho cái áo túi. Vì cái áo túi nên mới có cái tên xấu xí ấy !
 
Đã thế, tôi lại còn có nhiều khác biệt với học trò ở đây nữa. Chúng nó đứa nào cũng mang cặp da, xách bình mực có quai, sách vở mới tinh. Còn tôi không có cặp da chỉ có miếng vải dầu bọc sách vở và bình mực là cái chai nhỏ, thấp, miệng rộng do anh Giác tôi kiếm cho. Thêm vào đấy, sách vở tôi đều rẻ tiền. Vở thì giấy đã ngả màu, mua ở mấy hàng bán “xôn”. Sách cũng vậy. Sách mua ở những nơi người ta bày bán dưới hè phố, rách nát, mốc meo, hôi hám, long gáy, có quyển thiếu cả mấy trang chắc đã bị xé hoặc rụng mất -- Về nhà anh Giác chịu khó đóng lại bìa cứng nên dùng được nhưng vì những cái bìa cứng ấy do anh Giác dán mà lại dán quá nhiều hồ thành thử trông thô kệch, thảm hại. Về sau anh còn dán cho tôi cả một cái cặp có nhiều ngăn y như cái các-táp, nhưng lại cũng dán quá nhiều hồ nên những bìa sách và cái cặp của tôi hóa ra chỗ dự trữ lương thực cho loài gặm nhấm. Thỉnh thoảng, không biết chuột hay dán cứ móc từng mảnh giấy lớn làm anh Giác tôi phải đi khuấy hồ dán lại và công việc này biến anh ấy thành một người thợ mã. Dần dần, anh có cả một bộ đồ nghề gồm kim, chỉ, kéo, giấy và một số chai đựng hồ đặt trước bếp lửa. Anh đã làm công việc này ngoài những giờ cha tôi sai đem hàng ra phố hoặc bắt biên chép việc thu chi, lời lỗ, nợ nần vào sổ tay và mẹ tôi sai đi mua thức ăn hoặc mua đồ dùng trong nhà. Tội nghiệp cho anh ấy. Suốt ngày, ít khi tôi thấy anh rảnh tay. Có lẽ đó cũng là một cách cha tôi huấn luyện để anh Giác trở thành nhà doanh thương tương lai. Và bây giờ khiếu thương mại của anh được phát hiện bằng công việc dán bìa. Như một thói quen, lúc nào anh cũng dán bìa như anh đã thường khóc một cách dễ dàng. Tôi nghĩ vậy.
 
Còn tôi không được cái may mắn như các bạn học thì phải làm một cái gì nổi bật để người ta khỏi chế giễu gọi tên “Chú bé Lểnh Đểnh”. Cuối cùng tôi quyết định : Phải học thật giỏi ! Phải cố gắng học thực nhiều !
____________________________________________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>