Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2021

Miền Cô Đơn

 

Nếu có một lần nào đó phải viết về kỷ niệm, về những gì thoảng qua nhưng ám ảnh suốt thời gian đằng đẵng, thì có lẽ tôi không thể nào quên được một tên:

Dì Thảo.

Dì là con út trong gia đình Ngoại, út trút gia tài, út được cưng chiều, nhưng với Dì thì trái hẳn. Dì nghèo xơ xác, trong nhà bị ăn hiếp, từ lớn chí bé. Cậu Hải, Toàn, Dì Mơ, Dì Hạnh, cả Mẹ tôi. Ngoại tôi cũng vậy. Ai cũng ghét Dì. Trí óc non nớt của tôi thủa đó chỉ mơ hồ nghĩ rằng tại Dì xấu: nước da ngăm đen, mái tóc rễ tre cứng ngắc phủ trên vầng trán gồ ghề, khác hẳn với những nét mảnh mai thanh tú của các Dì, các Cậu tôi. Tôi chỉ phỏng đoán có vậy mọi người mới ghét, xem như đứa ở gặp lúc người giúp việc trong nhà lâm bịnh, Ngoại tôi cho về làng, và Dì đương nhiên kham khổ với chức vụ mới mẻ đó. Mãi sau này trong một dịp tình cờ tôi mới biết Dì là con riêng của Ông Ngoại tôi, Mẹ Dì đã mất năm Dì được năm tuổi.

Thể xác Dì là thể xác một khu rừng hoang, tất cả thật thảm hại, chỉ có đôi mắt là rõ sáng, là tinh anh, là xoáy buốt lấy tâm hồn kẻ đối diện. Hai hồ mắt như hai biển tình thương diệu vợi chỉ có ở các Bà phước trong trường áo trắng mà tôi thường bắt gặp mỗi sáng chủ nhật theo Mẹ đi lễ. Mọi người đều ghét Dì, duy chỉ có tôi là yêu Dì nhất. Những lúc vòi vĩnh không được, tôi thường nằm quay ra đất dãy dụa khóc la, Mẹ đánh đòn thật đau, rồi Mẹ bảo:

- Con Thảo đâu, đem con Hương ra sau gò hoang thả đấy xem nào!

Dì vội ẵm tôi đi, tôi khóc thét. Sợ nhất là phải đứng ở gò hoang một mình. Những đêm khuya tối trời các oan hồn hay hiện lên ngồi vắt vẻo trên những ngôi mộ hoang lạnh. Các Cậu, các Dì thường bảo thế. Tôi bị Dì Thảo ẵm lên, vội năn nỉ:

- Dì đừng bỏ Hương, Hương sợ lắm, Hương không đòi nữa đâu.

Đi khuất mắt Mẹ tôi, Dì nói khẽ:

- Không, Dì thương Hương lắm, Dì không bỏ Hương đâu, xuống bếp ngồi chơi với Dì. Một lát, Mẹ nguôi giận rồi lên xin lỗi Mẹ.

Bên bếp lửa đầy than hồng, Dì ẵm tôi trong vòng tay thật ấm áp: Dì nướng cho tôi một củ lang, tôi vừa ăn vừa nghe Dì kể chuyện cổ tích như "Công chúa ngủ trong rừng", "Tấm Cám". Tôi yêu thích nhất là chuyện Tấm Cám, Dì nói thật có duyên, lôi cuốn người nghe một cách đặc biệt. Và những lúc đó tôi thường hỏi Dì những câu thật ngớ ngẩn:

- Tại sao con Tấm nó khổ hở Dì?

- Vì nó mồ côi.

- Mồ côi là sao hở Dì?

- Là cha mẹ nó mất hết.

- Mất là sao, Dì nói có ví dụ như cô giáo, Hương mới hiểu.
 
- Chà, cô bé nầy rắc rối quá. Mất nghĩa là chết đó, như... như...
 
Dì không nói nữa, ôm siết tôi vào lòng khóc.
 
- Sao Dì không nói, sao Dì khóc? 

- Dì đâu có khóc, tại bếp lửa này làm cay mắt dì.

- Sao con ngồi đây mà bếp lửa không làm cay mắt? Dì khóc rồi, Dì dối con, con không thèm chơi với Dì nữa đâu, con đi chơi với con Titô, nó không nói dối...

- Thôi, cho Dì xin, bây giờ Dì kể chuyện này hay lắm.

Cái gì chứ chuyện cổ tích là nhất, là hết dỗi. Và giọng Dì đều đều bắt đầu bằng tiếng rất xưa... "Ngày xưa, thật xưa..." Trong vòng tay êm ấm của Dì, mùa đông ở ngoài trời không còn lạnh nữa. Tôi thiếp dần đi trong âm thanh êm đềm đó. Một lúc sau, trong giấc mơ tôi nghe tiếng Dì:

- Ờ, chó con, mới đó mà đã ngủ khì rồi.

Có tiếng Mẹ tôi:

- Con Hương ngủ rồi hở Thảo?

- Vâng.

- Có thau áo quần giặt đi cho chóng khô nhé.

- Vâng ạ.

Dì Thảo cái gì cũng vâng ạ, sống an phận, không phản đối dù trái dù phải. Sống như một người nô bộc trung thành, thật xót xa. Những buổi sáng mùa đông gió rét căm căm, Dì gánh hàng cho Mẹ tôi lên phố chợ, vai Dì trĩu nặng, chiếc lưng còng, tôi lẽo đẽo theo sau, mưa lất phất trên đầu chúng tôi. Lạnh thế nầy mà Dì vẫn chiếc áo nhung the thường xuyên. Khổ là thế! Tôi thương Dì như thương chính tôi, chúng tôi là đôi bạn rất thân hơn là hai Dì cháu.

Thời gian rất chóng qua, những tháng ngày mùa đông ủ ê không còn nữa, mùa xuân đến, én bay lượn trên trời trong xanh và cao vòi vọi, mây nõn nà, gió vẫn rét căm căm, mưa phùn nhẹ hạt đủ vừa cho rặng anh đào trước hàng giậu khoe sắc thắm. Thôi xuân, thôi hạ, thu vàng cũng nhạt nhòa buông trôi, tháng ngày ở ngoài đời và tuổi chúng tôi chồng chất. Tôi một ngày một lớn, Dì Thảo cũng đã 24, 25. Các Dì, các Cậu tôi dần dần ở riêng, Dì vẫn cô đơn, vẫn bếp lửa than hồng, vẫn những sáng nắng mai theo Mẹ tôi lên phố chợ, vẫn quần quật làm việc suốt ngày. Và tôi tuy lớn vẫn mãi mãi bé bỏng với Dì, sống trong tình thương, gần gũi ở Dì, học ở Dì những niềm yêu thương nhân ái. Dì dạy tôi yêu thế nào là mây xanh nõn nà những sáng nắng lụa trên cao, những chiều chênh chếch nắng đổ nghiêng trên những thảm trà, những đồi núi làng mạc xa xôi, những đợt khói cơm chiều bốc lên mãi tận cuối gành xa tít... Dì còn dạy tôi yêu những tiết trời lành lạnh, thời tiết của nhung the óng ả, như tơ liễu rũ, như mây trời giăng giăng, và trời phải thu, nắng phải lụa, lạnh phải vừa vừa, rét phải nhớ nhung. Dì thường dẫn tôi đi lang thang dưới trời mưa phùn lất phất, mưa rất vừa như những hạt cofetti đổ lấm tấm trên đầu chúng tôi, và lạnh cũng vừa đủ để hai dì cháu dìu nhau đi giữa hai rặng thông đìu hiu, vừa đi, Dì vừa hát thật khẽ cho tôi đủ nghe:

"Đêm đông, ôi ta nhớ nhung đường về xa xa,
Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia đình yêu thương,
Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương,
Có ai thấu chăng tình cô lữ, đêm đông xa nhà."

Tôi lớn mãi lên và sống như thế trong tình yêu thương gia đình, những lời ru êm ấm của Mẹ, những điệu buồn cổ tích thánh thần của Dì Thảo. Cho đến một hôm tôi đành mất hết thiên đường tuổi thơ. Đó là lúc có một chàng trai đến với tâm hồn Dì. Chàng trai đó không hiên ngang cỡi ngựa trắng như hoàng tử trong truyện "Công chúa ngủ trong rừng", không phong trần như những nhân vật chính ở tiều thuyết, mà rất tầm thường. Nhưng với Dì là cả một tuyệt diệu thanh cao. Chàng đến và xin được cưới Dì, Ngoại không bằng lòng viện lẽ không hạp tuổi, nhưng tôi biết, nếu Dì ở riêng, nhà Ngoại sẽ không ai lo, phải mướn người giúp việc, đó là điều mà Ngoại và Mẹ tôi không muốn. Mối tình đầu của Dì tan vỡ một cách nhẹ nhàng. Tôi tưởng thế rồi Dì sẽ quên đi, với thời gian, thời gian rất chóng tàn phai Dì thường dạy tôi thế sẽ trôi vào quên lãng. Tôi vẫn sống đầm ấm với những sáng nắng hồng sớm mai, buổi chiều thoang thoảng tiếng mục đồng gọi nghé trở về. Dì vẫn tiếp tục thổi vào đời sống tôi sinh khí thơ mộng của vùng quê ngoại.

Dì bắt tôi đọc thật nhiều sách, những loại sách hồng nho nhỏ, đọc và tập làm những bài thơ ngắn. Dì thường nói:

- Hương rất có khiếu về văn chương, cố lên, sau nầy sẽ viết thật hay. Viết là một lối diễn tả nội tâm sâu sắc nhất. Tôi nghe mà chẳng hiểu, những gì là nội tâm, sâu sắc, chỉ biết đọc theo Dì:

Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết,
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về
Chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê,
Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ...

*

Rồi một đêm kia, Dì bỗng ôm chầm lấy tôi, nước mắt lưng tròng:

- Dì xa Hương rồi, Dì nói nhỏ cái này, Dì trốn đi với anh Hoạt, đừng nói với ai, khuya này Dì đi.

- Dì bỏ con hở Dì, con mách Ngoại...

- Tội nghiệp Dì mà Hương, Dì đi một thời gian để Ngoại hết ghét, Dì sẽ trở lại.

Và đêm đó Dì đi thật. Sáng mai lúc tôi vừa thức giấc thì cũng vừa nghe ở nhà phát giác tin Dì trốn. Ngoại gọi tôi ra, quất một trận, và hỏi:

- Mày biết con Thảo nó trốn đâu không, Ngoại tin chỉ có mình con biết, hai đứa bây to nhỏ với nhau lắm mà.

- Con không biết thật mà.

- Thôi để nó đi cho khuất mắt. Quyết định cuối cùng của Ngoại về Dì Thảo.

Dì đi rồi tôi bơ vơ thấy rõ, không còn ai tâm sự, không còn ai để tôi khoe bài luận được cô giáo khen nhất lớp. Hết rồi những đêm trăng sáng hát theo với Dì bài "Đàn chim Việt" của Văn Cao. Tôi ghét anh Hoạt làm sao, anh đã cướp mất Dì Thảo của tôi, đã mang đi hơi thở nồng ấm mùa đông, những sáng bình minh chói chang không còn ai cho tôi biết thế nào là quê hương yêu mến, những mây trời giăng giăng, những sáng nắng thu vàng, thứ thu vàng rất yên ổn. Tôi không còn được đi chênh vênh trên đê cao, cạnh Dì, để thấy đất nước mình là rộng, tình thương rất đỗi bao la ; không còn được ai chỉ cho xem những đàn bướm vàng nhởn nhơ trong luống cải và luôn cả giọng đều đều trầm buồn của một phiên sầu cổ tích bao giờ cũng bắt đầu bằng hai tiếng ngày xưa. Thật hết cả rồi.

Hình ảnh đó tôi chợt bắt gặp lại một hôm trên đường từ trường về, lúc qua cầu Tràng Tiền. Tôi vội chạy nhanh để được gọi to hai tiếng Dì Thảo. Nhưng tôi đã lầm. Người tôi gặp không phải là Dì Thảo, chỉ là một người xa lạ dửng dưng với tà áo múa nhẹ, bước đi đài các. Phải rồi, làm sao mà giống Dì được, bởi áo Dì mặc phải là áo lụa Hà Đông, dáng đi phải là dáng đi của một người miệt mài tần tảo. Nhất là đôi mắt, không có đôi mắt nào chứa nhiều tình thương yêu như của Dì Thảo được.

Chiều nay tôi chỉ gặp một người xa lạ đi trong nắng hanh vàng của một ngày mùa thu xứ Huế. Không hiểu sao tôi vẫn thường nghĩ rằng, nắng ở bước chân Dì đi phải là thứ nắng quê hương, rất đỗi lụa là óng ả, bầu trời phải thật trong xanh như ngọc thạch, và gió chỉ vừa lạnh thứ lạnh dịu dàng châm kim trên da thịt để mình thấy có một tình thương yêu là ấm.


Hương-Kim-Long      

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 61, ra ngày 15-1-1967)



Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2021

Sau Bóng Núi

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
(tặng Vũ Triều T. S. đó)

Giọt nắng vàng lung linh
Môi thu cười dịu nhẹ
Mây tóc trôi bồng bềnh
Chợt nghe hồn kêu khẽ
Một chút buồn không tên

Nỗi nhớ nào vây bủa
Chân mây nào cách ngăn
Một màu xanh áo lụa
Đó lòng ta băn khoăn
Đó tình ta kết tủa

Giọng gió cười trên mây
Trời mùa mưa nhỏ ngọc
Ta khóc không ai hay
Dấu sầu đan trong tóc
Muộn phiền che kín tay

Dốc bụi đồi hoàng hoa
Mời cùng ta nhập cuộc
Chân sáo đàn giao thoa
Cánh chim bằng bay vút
Núi rừng quản lợi xa

Bóng dáng thành huyền thoại
Người còn xa biệt mù
Có ta về hay gọi
Mặn nồng giấc quyên du
Vạn niềm mơ diệu vợi

Ngọn nến trời ngời cao
Soi đường thơ nhỏ đến
Lời vỗ về lao xao
Cắn môi nghe quyền lệnh
Một dấu nhớ ngọt ngào

                      TRỊNH BẢO THỤY
                          (T. T. HOÀI 71)
 
(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 17, ra ngày 5-12-1971)
 

Thứ Sáu, 8 tháng 1, 2021

Về Ăn Cơm

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Về thương một buổi chiều xưa 
Trời mưa, tôi nhớ trời mưa mịt mờ… 
 
Tôi cùng mấy bạn tuổi thơ 
Chơi trò trốn kiếm quên giờ ăn cơm 
 
Mặc cho mùi khói củi rơm 
Mặc cho bổi hổi mùi thơm bếp chiều 
 
Mẹ tôi dáng nhỏ liêu xiêu 
Chạy ra đầu ngõ tiếng kêu đã khàn 
 
 "Về ăn cơm… Về ăn cơm…" 
Tôi khờ khạo cứ trốn tìm vui chơi 
 
Mẹ tôi gọi lạc cả hơi 
Dõi theo tôi suốt một thời ấu thơ 
 
Mâm cơm ngày ấy… bây giờ 
Chỉ còn hơi khói bay mờ trong mưa 
 
“Về ăn cơm ...”, tiếng vọng xưa 
Nghe như mẹ gọi mới vừa đâu đây ! 
 
                                               Đằng Linh
 

Thứ Năm, 7 tháng 1, 2021

Hoa Thơ Ấu


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Nắng trổ bông đầy ngõ ấu thơ
Em đi nhịp bước quyện i, tờ
Tóc cột đuôi gà - cong lá mạ -
Áo bà ba trắng đẹp đơn sơ

Trống điểm hồi hai tự thuở nào
Hèn chi vắng bặt tiếng xôn xao
Lột nón. - "thưa cô em tới trễ
Cô cười : thôi xuống lớp cho mau" -

Ngòi viết lá tre gò nét chữ
Cô khen trò nhỏ có hoa tay
Mực tím kết lời thơm giấy tập
Hồn trong lởn vởn ý thơ ngây

Tan học, sắp hàng ra khỏi cổng
Vẫy chào lớp nhỏ, mái thoa son
Tiếng guốc nghe hiền như nhịp võng
Đường vẫn còn xa, guốc chửa mòn

                                         HOA CỎ MAY

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 84, ra ngày 1-1-1968)

Thứ Tư, 6 tháng 1, 2021

Thương Yêu


Em bước nhẹ ra vườn. Trời chưa sáng hẳn, mặt trời còn nấp sau đỉnh núi từ đó hắt lên một màu vàng chói lọi. Cây cối rụng dần lá xanh, chỉ còn trơ lại những cành già cỗi. Thỉnh thoảng có những búp non mới xuất hiện trông dễ thương lạ. Cảnh mùa đông u buồn và ảm đạm. Nó cũng làm em buồn lây khi nhớ đến những gì quen thuộc. Tiếng chim hót trên cành vào những ngày nắng vàng ấm áp. Tiếng gió thì thào qua kẽ lá và khung trời xanh lộng gió mỗi buổi chiều... Vài hạt mưa lấm tấm rơi vào tay, vào mặt khiến em cảm thấy lành lạnh. Tiếng mẹ gọi vọng ra từ cửa sổ làm em giật mình.

- Vào chứ Loan, đứng mãi đấy à!

Em chạy vào nhà ôm chầm lấy mẹ.

- Trời lạnh mẹ nhỉ? Mùa đông mà.

Mẹ khẽ lườm em:

- Đã bảo mặc áo len vào mà không nghe. Hư lắm nhé, bảo bố đánh đòn bây giờ.

Em tròn mắt nhìn mẹ:

- Bố về hở mẹ? Thế mà mẹ chẳng nói cho con biết gì cả, mẹ xấu ghê đi.

Mẹ không đáp. Ánh mắt mẹ nhìn ra ngoài cửa sổ. Ừ! Em giận mẹ ghê đi, hỏi mà mẹ chẳng trả lời gì cả. Chắc mẹ lại nhớ đến bố hẳn. Nhắc đến bố em thích ghê là. Bố thương em lắm cơ, lần nào về bố cũng mang nào kẹo, bánh, nào chocolat... cho em. Nhiều, nhiều lắm mà em cũng chả nhớ rõ nữa. Mỗi khi về đến cổng bố đều gọi hai tiếng quen thuộc "Loan ơi!". Nó chẳng có gì đặc biệt nhưng em yêu hai chữ ấy lắm. Bố gọi em một cách nhẹ nhàng làm sao ấy, khiến em đang chơi ở đâu cũng biết bố về. Bố vuốt tóc em, bố xoa đầu em, hỏi han em đủ thứ. Hai bố con quên cả việc vào trong nhà khiến mẹ phải kêu lên:

- Ơ hay! Định đứng luôn ở ngoài ấy hẳn.

Lúc đó bố mới ngẩng đẩu về phía mẹ mỉm cười và dắt tay em:

- Đi vào Loan, kẻo mẹ mắng bây giờ.

Em nhìn bố toét miệng cười, một nắm tay bố, một nắm tay mẹ em kéo hai người vào phòng khách. Sau khi bố đã ngồi trên ghế hẳn hoi em mới sà vào lòng bố:

- Bố ơi, trong cái túi của bố có những gì mà nó phồng lên, to thế hở bố?

- Bố chả biết.

- Ư! Bố dối con đấy nhá. Nghỉ bố ra đi.

- Ừ, Loan cứ "xịt" bố ra đi, bố chơi với mẹ.

Em ngước mắt nhìn mẹ chờ câu trả lời. Mẹ không nói gì chỉ quay mặt đi chỗ khác. Em reo to:

- Đấy nhá, bố xem mẹ đâu có chơi với bố.

- Thế thì bố cũng không có cho Loan ăn chocolat đâu.

Bây giờ em mới nghĩ đến điều ấy và tự thấy mình ngu. Ai bảo đòi nghỉ bố ra làm chi. Em cúi đầu chớp nhanh đôi mắt. Tự nhiên em muốn khóc, không biết có phải em khóc vì tiếc mấy món quà bố để trong cái túi ở xó nhà kia không nhỉ? Chắc là không! Thế thì khóc vì lẽ gì em cũng không biết nữa. Chợt giọng cười của bố làm em giật bắn người.

- Bố giỡn đấy, mà Loan định dỗi à?

Em lắc đầu.

- Vậy bố cho Loan cả cái túi ấy đấy. Bằng lòng không?

Những hôm ấy cả nhà thật vui với các câu pha trò của bố. Cứ nhắc đến bố là kỷ niệm lại về khuấy phá trong lòng em. Nó làm cho ruột gan em rối tung cả lên. Em thì thầm một mình:

- Bố ở đâu đấy? Mẹ bảo bố ở thật xa, nơi mà mỗi buổi chiều mẹ vẫn chỉ cho con đó. Có phải thế không hở bố?

Mẹ chợt đập lên vai em:

- Nói nhảm gì thế.

Em nhìn mẹ rồi chỉ tay ra ngoài cửa sổ:

- Mẹ thấy không mặt trời đã lên cao rồi đấy. Đi mẹ, dắt con lên ngọn đồi mà mọi hôm mình vẫn lên đó.

Mẹ nhăn mặt:

- Trời còn sớm thế này đi để mà chết cóng hở? Thôi chiều vậy.

- Không, bây giờ cơ vì con đang nhớ bố.

Mẹ ngẩn người nhìn em rồi nắm tay em dắt ra khỏi nhà. Em tung tăng bước theo mẹ, gió thổi mạnh làm em rét run. Mẹ ngoảnh lại nhìn:

- Đã bảo mà không nghe.

Em nhìn mẹ cười. Lên đến đỉnh đồi, hai mẹ con ngồi xuống mặt cỏ êm như nhung. Ánh nắng ấm áp đã đánh tan cái lạnh của buổi ban mai. Em nói khẽ:

- Ngồi ngoài nắng thú nhỉ, mẹ có...

Chợt thấy nét mặt mẹ không vui em ngừng lời. Em để mẹ lặng yên đuổi theo những suy tư của mình. Mẹ em mới đẹp làm sao, dưới ánh nắng khuôn mặt mẹ phản chiếu lung linh. Em nhìn lên đám mây trắng đang trôi lững lờ trên bầu trời cao rộng, thì thào:

- Mây ơi, cho em gởi lời thăm bố nhé. Mây hỏi em thương ai nhất ư? Em thương bố mẹ em nhất, thương cả mây nữa mây ạ!


MINH THU      

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 121, ra ngày 1-1-1970)

Thứ Ba, 5 tháng 1, 2021

Thuở Nhỏ



 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày xưa còn nhỏ anh đi học
Em cứ theo anh dẫn đến trường
Từng bước anh đi em nối bước
Qua hồ sen nắng ngập men hương.

Hoa cúc vàng tươi ở vệ đường
Trên hàng rào thiên lý vương vương
Em cười em bảo, kìa anh thấy!
Cây liễu lá cành nặng những sương.

Lớp anh thầy giáo thật hiền ghê!
Cho em ngồi ké đến khi về
Bạn anh cười chọc kìa cô bé
Vừa mới lên năm đã lớp nhì

Em cứ luôn luôn toét miệng cười
Nền trời cao, mây trắng chơi vơi
Rồi anh đưa mũ cho em đội
Lấy cặp che đầu mướt mồ hôi

Rồi đến khi em lên sáu tuổi
Anh lại dắt tay dẫn đến trường
và đón đưa một ngày hai buổi
Bắt đầu từ những sáng tinh sương

Vở em anh bao màu giấy xanh
Em chẳng thích mấy, (nhưng sợ anh)
Thấp thoáng hình bìa sau bóng giấy
Ổ chim non chênh vênh trên cành

Bút mới anh cho nức mùi thơm
Anh ơi nắng mới gỗ lên hương
Em tô chữ uốn cho tròn nét
Đừng để chữ gầy dáng khó thương

Em thích tô màu mực cánh sen
Màu hồng tươi tựa áo cô tiên
Anh bắt đổi màu hồng sang tím
Rán viết cho sạch sẽ nha em!

Cho đến bây giờ anh ở xa
Tay ôm tròn mộng tuổi niên hoa
Em vẫn hay cười khi nhớ tới,
Những ngày xanh trong tuổi ngọc ngà.

                                             THƠM NHÂN

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 99, ra ngày 1-1-1969)

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2021

Tiếng Xưa

 

Nếu có một lúc nào đó phải tạm quên thực tế để quay về sống với nội tâm, tôi sẽ nhớ mãi một kỷ niệm sâu xa, với một người, mà qua bao cuộc đổi thay mình vẫn hằng thương mến:

Khanh Thúy

Tôi biết chị qua những buổi trình diễn văn nghệ ở trường. Lần đầu tiên nhìn chị đứng hát trên sân khấu dáng thon gầy mềm mại, nét đẹp buồn, tôi thấy lòng xao động một tình cảm mến thiết tha. Tôi yêu nhất là đôi mắt chị, đôi mắt của một mầu tím thật nhớ nhung và buồn xa xăm diệu vợi, mái tóc thề bỏ xõa lên dáng người thanh tú, mảnh mai, gương mặt thùy mị, mơ màng phảng phất nét sầu man mác. Tôi mê chính con người chị hay thích vẻ buồn mơ của một cô gái Huế qua chị, tôi cũng không biết nữa.

Yêu vì những đường nét biểu lộ một bề sâu thăm thẳm của tâm hay yêu giọng hát trầm buồn thì thầm bên tai như những lời tâm sự, tôi cũng không sao hiểu được. Chỉ biết rằng mình ngưỡng mộ chị với một thứ tình cảm đam mê lạ lùng. Hình bóng chị đi cả vào những giấc ngủ mơ. Tôi gọi tên chị trong một âm thanh trìu mến.

Không biết sao tôi lại mến chị đến thế và không thể nào phân tích được chính tâm hồn mình nhưng tôi cũng chẳng tìm hiểu làm gì vì nghĩ rằng tình cảm không có lời giải thích. Tôi nuôi giấc mộng được làm quen với chị và nói cho chị biết tất cả tình thương yêu của tôi. Hoài bão đó lớn dần theo năm tháng, cho đến một hôm, mơ ước đã thành hình. Đó là lúc tôi được quen với chị, trong một dịp hết sức tình cờ. Một hôm, trên đường từ trường về nhà, tôi bị ngã xe, vừa đúng lúc qua cầu Trường Tiền. Tôi thấy đau buốt dưới chân, không sao đứng dậy được. Người đi đường xúm lại chung quanh, tôi bối rối đỏ bừng mặt. May sao, giữa lúc ấy có một bàn tay nào nhẹ nâng mình dậy. Tôi nhìn lại và ngạc nhiên, vui mừng xiết bao khi nhận ra đó là người mà mình vẫn thường yêu mến. Chị nhìn tôi, dịu dàng hỏi:

- Em có đau lắm không? Chị chở đi nhà thương nhé?

Tôi thu hết can đảm, gật đầu. Vết thương thoạt đầu tưởng không sao mà bây giờ chảy đầy máu. Chị nhấc bổng tôi lên xe. Tôi mê mẩn cả tâm thần, hình bóng chị tuy gần gũi mà như thấp thoáng, chập chờn đâu đây, tôi chỉ cảm thấy một cái gì rất đỗi nhịp nhàng, thanh thoát.

Tôi quen chị từ đó. Rồi chúng tôi thân nhau một cách dễ dàng. Những buổi tối mùa đông đến chơi với chị trong gian hàng thêu, ngồi bên chị trước bếp lửa đỏ hồng sưởi ấm và ăn hạt dẻ rang nóng hổi, tôi quên cả cái giá rét căm căm ngoài trời. Chị vừa thêu vừa kể chuyện cho tôi nghe. Tôi rất thích nghe chuyện về chị. Chị tâm sự với tôi như một người bạn rất thân, nói về quãng đời học sinh của mình với một thoáng xót xa tiếc nhớ:

- Khi còn đi học, nhiều lúc chị chỉ mong sao kiếm được tiền giúp đỡ gia đình. Nhưng đến lúc đi làm rồi, muốn trở lại thời đi học như xưa cũng không sao làm được. Đôi lúc, có dịp qua trường cũ, chị mới chợt nhớ ra mình đã đánh mất tuổi thơ từ bao giờ...

- Chị vừa học, vừa làm cũng được vậy. Trong trường có nhiều đứa mến chị lắm, nhất là nghe chị hát vào những buổi tất niên...

Chị lắc đầu:

- Ra đời khó lắm, Đan ạ. Đi làm công lấy tiền của người ta đâu phải chuyện dễ. Mình phải giữ ý từng ly, từng tí mà vẫn bị bắt ne bắt nét như thường...

- Người ta ác quá, hả chị?

- Chị không trách người ta. Ai cũng thế. Thuê người làm đều muốn cho xứng đáng với đồng tiền mình bỏ ra. Có một điều là, ngày xưa khi còn đi học, không bao giờ chị nghĩ sẽ có một ngày nào đó mình phải như thế này. Cuộc đời thật không biết đâu mà nói trước.

Tôi im lặng, nghe âm thanh đều đều, trầm trầm thoảng qua. Tiếng chị chợt nhỏ hẳn đi:

- Có những ước mơ, theo chị nghĩ, thật giản dị mà không sao đạt được. Bao giờ chị cũng thích được đi dạy học, ở một tỉnh nhỏ, đời sống thật êm đềm phẳng lặng, xuôi giòng. Được sống mãi trong thế giới trẻ thơ, những giọng cười, điệu hát hồn nhiên của tuổi nhỏ là niềm mơ ước lớn nhất đời chị. Đến bây giờ nhìn lại mới thấy giữa thực tế và ước vọng còn cách nhau xa quá.

Tôi hỏi chị một câu mà sau đó mới biết là mình vô ý:

- Sao chị phải bỏ học nửa chừng vậy?

Chị im lặng một lúc lâu, rồi khóc. Tôi nhớ lại một hôm đến chơi nhà chị, lúc hỏi về ba mẹ, chị không nói gì cả, chỉ khẽ ngước mắt nhìn lên bàn thờ rồi cũng khóc như hôm nay. Tôi bối rối xiết chặt bàn tay nhỏ nhắn của chị:

- Em xin lỗi đã làm chị buồn.

Chợt có tiếng người lanh lảnh vọng xuống:

- Xong chưa hả Thúy?

- Dạ, sắp xong rồi ạ.

- Nhanh tay lên, người ta đến lãnh hàng bây giờ đấy.

Bà chủ hàng ra xem lại những chiếc áo thêu. Và bà nhận thấy những bông hoa cúc vàng, những chiếc lá xanh pha màu không được vừa mắt nên bắt chị tháo ra, thêu lại tất cả. Hôm ấy, mãi đến tận khuya chị mới được về.

Những buổi sáng đi, chiều về kéo dài, mòn mỏi suốt đời chị. Về sau, tôi được biết, chị mồ côi khi còn đi học, và phải bỏ dở, đi làm nuôi một đàn em. Ngoài công việc ở một sở tư, có những sáng sớm mùa đông, trời rét căm căm, chị đã phải đi nhận hàng về thêu, đan từng chiếc áo. Rét cắt da mà chị vẫn phong phanh một chiếc áo dài lụa mỏng. Chị làm việc và nhường tất cả cho đàn em bé. Lần đầu tiên tôi mới hiểu thấm thía thế nào là xót xa. Không một đôi mắt nào có bề sâu thăm thẳm nội tâm như chị Thúy. Và cũng không có nét mặt nào làm tôi cảm xúc và thương mến bằng của chị. Tôi yêu cái nét đẹp dịu hiền, tâm hồn mềm mỏng và cuộc đời khắc khoải đó.

Nghe chị hát những bản nhạc xưa bằng một giọng trầm buồn, tôi có cảm tưởng như đang đứng trước một dĩ vãng cổ kính dệt bằng những hình ảnh rung động của quê hương, một cái gì rất gần gũi thiết tha gắn liền với đất nước. Tiếng hát của chị đưa hồn tôi tìm về những thảm trà nương dâu, những ruộng đồng bát ngát tắm ánh trăng vàng mờ ảo. Tôi tìm thấy trong âm thanh nức nở của bài ca những lời tình tự thở than của quê hương miền Trung khô cằn sỏi đá, nỗi sầu lắng đọng của núi Ngự, sông Hương... Dư âm những tiếng hát:

"Ôi quạnh hiu, ôi quạnh hiu
Lều tre tan nát,
Luyến tình quê, luyến tình quê
Hẹn sẽ trở về..."
 
Vẫn vang vọng trong hồn tôi một nỗi buồn xa vời vợi. Tôi yêu những nét đan thanh, đẹp buồn, hoài cổ những gì mong manh rất chóng tàn phai như dĩ vãng vàng son của đất nước, nỗi sầu cô tịch, trầm lặng u hoài, man mác, xa xôi... mà lời ca đã dìu tôi đi vào những nỗi buồn lang thang, du mục đó. Tôi thích đến say mê những cử chỉ e ấp, dịu dàng, từng nụ cười, ánh mắt, nét nhìn của chị đều biểu hiệu cho một cái gì rất "Huế", rất "Á Đông" thật duyên dáng dễ thương mà rất đỗi nhẹ nhàng tế nhị.

Chiều nào tan học sớm tôi cũng đến chơi với chị. Tâm hồn chị có những nét rất đặc biệt mà tôi chưa nhận thấy ở một ai khác. Cửa sổ nhà chị là cả một khung trời thu hẹp: Sáng sớm mây xanh lụa là trên cao, buổi chiều hoa lá giăng giăng mây tím, những thảm cỏ non óng mướt như nhung tơ, những tòa nhà trắng thấp thoáng trong sương mờ, rặng liễu đìu hiu ru buồn trong gió mà ở đó tôi đã từng nhìn những mùa thu đi qua. Thời gian thấm thoát thoi đưa, đầm sen trắng mùa hạ đã dần dần rũ lá, cúc vàng thôi hết đơm hoa, đông về mây xám ủ rũ giăng trên nền trời u ám, bếp lửa hồng đỏ rừng rực vẫn không đủ xóa tan giá rét căm căm bên ngoài. Đông tàn, rặng anh đào ngoài bờ giậu lại bắt đầu hé nụ, mây trắng nõn nà trải nhẹ nhàng trên bầu trời trong xanh như ngọc bích, én tản mác bay trên từng cánh rừng thông xanh mướt trong nắng hồng rực rỡ của một sáng đầu xuân. Tôi yêu Huế tha thiết, với một lý do mà tôi không muốn chấp nhận tí nào. Tôi muốn mình phải yêu Huế qua nét đẹp cổ kính u trầm và bốn mùa xuân, hạ, thu đông âm hưởng một phần nào thời tiết lụa là của nhung tơ xứ Bắc. Tôi muốn mình phải yêu Huế vì Huế cho tôi tìm lại quê hương đã mất, lá dừa mềm mại nghiêng bóng trên giòng sông Hương gợi cho tôi hình ảnh nên thơ của rặng tơ liễu rũ xuống hồ Hoàn Kiếm, thôn Vỹ Dạ đìu hiu ủ khói lam chiều nhắc nhở tôi một xóm Nghi Tàm rực nắng ngàn hoa. Nhưng tất cả chỉ vì Huế là quê hương chị. Bằng những kỷ niệm đã có về chị, non nước Ngự Bình sống trong tôi như một phần đời. Chị thường dắt tôi lang thang dưới bóng hoàng hôn nhạt nhòa của một ngày thu vàng xứ Huế, qua những cánh đồng tắt nắng bờ đê, tiết trời thu cố đô thật óng ả như mưa rây bụi phấn, như sương mù giăng giăng, giòng Hương giang lấp lánh tựa tấm lụa đào và giọng ca của chị thật trầm buồn xa xôi như tiếng thông rì rào trên núi Ngự:

Biệt ly, nhớ nhung từ đây,
Chiếc lá rơi theo heo may,
Người về có hay...

Chị còn đưa bước chân tôi vào vũ trụ thần tiên kỳ ảo của những điệu buồn cổ tích xa xăm. Thế giới cổ xưa huyền bí của chị không cao sang với những nàng Công Chúa kiêu sa, ngọc kết trâm cài, không quyền quý như những chàng Hoàng Tử hiên ngang phi ngựa trắng băng qua lâu đài tráng lệ, mà trái lại, rất tầm thường. Đó là tất cả tình tiết có thể bắt gặp trong đời sống hằng ngày. Quê hương của những kẻ bị lưu đày khổ ải. Trong vùng thần thánh đó, tôi thích nhất truyện Con Chim Tu Hú. Tôi thương hại con bé trong truyện quá. Thường thường tôi không bằng lòng ở cách sắp xếp cho số phận những nhân vật: "Sao lại thế này... mà không thế khác..." nên hay có những thắc mắc thật trẻ con:

- Sao con bé nó hiền và ngoan như thế lại phải mồ côi, khổ sở, rồi còn bị biến thành chim tu hú, còn lão phù thủy ác mà không bị làm sao hết, hả chị?

- Chị cũng chả hiểu tại sao nữa. Đan hỏi khó trả lời quá.

- Vậy nên hiền hay nên ác hả chị?

- ...!?

- Hả chị?

- Nên hiền chứ. Đan hỏi lạ quá.

- Hiền để phải khổ như con chim tu hú hả chị?

Chị ngập ngừng:

- À... chắc nó chỉ bị khổ một thời gian thôi, rồi sau đó, thấy nó có lòng tốt, ngoan ngoãn, Chúa lại cho lên Thiên Đàng.

- Thiên Đàng ở đâu cơ chị?

- Ở mãi tận trên trời ấy, xa lắm.

- Nhỡ không có Thiên Đàng thì sao chị?

Mắt chị chợt buồn xa xăm:

- Có chứ, chị tin là có Thiên Đàng, có Chúa. Chúa thương những người nghèo khổ.

- Thế Chúa có thương con bé "tu hú" không chị?

- Có chứ.

- Sao Chúa không phù hộ nó?

- ...!

- Thế Chúa có ghét lão phù thủy không chị?

- Có chứ.

- Sao Chúa không phạt?

- ...!

- Em hỏi sao chị không nói? Chị nhìn đi đâu vậy? Chị nghỉ em ra há. Thôi em không chơi với chị nữa đâu, em về nhà bày hàng với con "cúp bế".

Chị cười, ôm tôi vào lòng:

- Thôi, cho chị xin, đừng dỗi nữa. Tại Đan hỏi lôi thôi quá chị mới không trả lời được chứ. À này, có quả đào chín cây mọng quá, chị hái cho Đan nhé.

Đến ăn là nhất. Tôi cắn một miếng mà nghe vị ngọt của trái đào thấm dần vào tận lưỡi. Chị chiều chuộng, thương tôi như em. Ngoài buổi làm việc và sống với đàn em, còn bao nhiêu thời giờ chị dành cho tôi hết. Chị bảo tôi biết yêu những cảnh ấp ủ tâm tình quê hương: những sáng nắng hồng tươi trên nền trời thúy ngọc, những chiều vàng hiu hắt trải trên núi đồi, thôn xóm xa xa, những đợt khói thổi cơm chiều bốc lên từ mãi tận cuối thôn rồi tản mác vào những lũy tre cao xanh ngắt... Chị còn nhắn nhủ tôi thế nào là niềm nhân ái, lòng thương yêu, nào là thiên đàng ấu thơ, thời gian, kỷ niệm... Chị bảo tôi: tập viết nhật ký cho quen, tập diễn tả những sự việc chung quanh bằng những đoản văn, những bài thơ ngắn. Chị vẫn nói:

- Đan nên viết thường xuyên cho quen. Tập nhận xét rồi diễn tả cho đúng, sau này lớn lên chị tin rằng Đan sẽ có một lối nhìn đời thật sâu sắc.

Tôi bắt gặp tâm hồn cô đơn, thao thức của chị qua những bài thơ chị hay đọc cho tôi chép. Đối với tôi, chị Thúy là tuyệt vời của đời sống. Tôi thích chị bởi tâm hồn mong manh tế nhị, cuộc sống đơn sơ giản dị với hai tà áo lụa trắng, tím, qua hai mùa nắng, mưa. Huế nghèo nàn, Huế trang đài, Huế khuê các. Tất cả yếu tố mâu thuẫn đó hòa hợp trở thành một Huế của tôi. Tôi thầm tiếc sao mình không là em chị thật. Mặc dù không ruột thịt nhưng không hiểu sao tôi vẫn thương chị bằng tình cảm rất tự nhiên, lúc nào chúng tôi cũng quấn quít bên nhau như hình với bóng.

*

Tôi lớn lên theo từng hơi thở của mảnh đất quê nghèo. Đời sống qua đi trong những sáng nắng hồng chói chang, buổi chiều cô tịch trong tiếng mõ rã rời từ lũng xa vọng lại. Tôi vẫn sống đầm ấm trong vòng tay âu yếm của chị, điệu ru buồn vời vợi của nhịp gió trùng dương. Đến một hôm tôi đành bỏ lại đằng sau mình thế giới tuổi thơ, chị ở riêng và phải theo chồng đi một nơi khác. Hôm ấy, chị đến gặp tôi, mắt đỏ hoe:

- Chị nói Đan đừng buồn nhé, chị xa Đan rồi. Mai chị phải theo anh Duy vào Nha Trang...

Tôi giật mình, thờ thẫn, đứng lặng một lúc lâu. Mãi tôi mới nói được:

- Chị đi thật hả? Bao giờ chị về?

- Chị đi lần này chưa biết chừng nào mới trở lại. Xa Huế buồn quá, nhớ nhất là Đan.

Tôi biết trước cảnh chia ly không thể tránh, nước mắt không níu được chân người mình mến thương nhưng tôi vẫn khóc. Nước mắt dàn dụa, cảnh vật mờ dần...

- Đan đừng khóc chứ, ở lại, cố học cho giỏi, chị sẽ viết thư cho Đan luôn.

Chị cho tôi chiếc áo len hồng, thêu hoa trắng. Tôi ôm xiết chị. Ngoài kia, mưa giăng trắng xóa. Chiều xuống, thật buồn.

Vắng chị rồi, tôi mới thấy mình đơn độc làm sao, không còn ai để tâm sự những chuyện ngộ nghĩnh, vui buồn ở lớp. Không ai thương và hiểu tôi bằng chị. Những gì sâu thẳm nhất trong hồn, tôi chưa từng nói với một ai khác, ngoài chị ra. Nhớ buổi tan học về sớm cùng chị thơ thẩn trên đê dài ngoằn ngoèo đi vào lòng thôn xóm để thấy những mái tranh xơ xác quyện khói cơm chiều, nắng vàng chếch bóng xiên khoai trên đồi trà xa tít, những đêm khuya thanh vắng, từng ánh lửa mờ nhạt thấp thoáng trong khoang thuyền trên giòng nước quạnh hiu... Bản tình ca trầm buồn "Ôi quê xưa mờ trong nắng vàng, chìm trong tiếng đàn..." hôm nào chỉ còn là dư âm xa xưa, cả những huyền thoại cổ tích ru hồn tôi vào giấc mơ thần thánh. Tôi không còn được co ro trong chiếc áo ấm khi trời chớm thu lành lạnh, tiết lạnh dịu dàng rất nhớ nhung của một mùa thu khô ráo có gió may và nắng hanh hong vàng mái tóc, đi qua những cánh đồng khô cỏ cháy nhìn từng dãy làng mạc tiêu điều sau cơn chiến chinh để nghe chị nói rằng chỉ lúc đó mới hiểu rõ thế nào là quê hương đau khổ. Hết cả những chiều mưa đan sắc trắng, những sáng nắng lụa dịu dàng và màu tím thu vàng thôi hết nhớ nhung. Thiên đàng tuổi thơ từ đây đành xa cách mãi.

Tháng ngày qua đi, tôi nghĩ rằng thời gian sẽ làm mờ phai tất cả, hình ảnh chị cũng bị đám mây mù của thực tại bao phủ nhưng lúc nào cũng nhắc nhở như một hiện hữu thường xuyên. Sống trong những cơn mê của hiện tại, tôi càng nhớ chị tha thiết, thật thiết tha và tự hỏi không biết bây giờ chị ra sao, nhất là khi những cánh thư ngày một vơi dần, vơi dần rồi hết hẳn. Tôi mong gặp chị khôn cùng. Mỗi khi bất chợt có gì gợi nhớ đến chị thì ước mơ đó như lửa gặp gió, ngút ngàn dâng cao. Tôi ôm ấp hình bóng chị suốt tám năm qua, càng níu càng xa như một cái gì ngoài tầm tay chẳng bao giờ vói thấu.

Nhưng đến một ngày kia tôi đành phải tan vỡ hết mơ ước tuổi thơ. Đó là lúc tình cờ tôi gặp lại chị trong một dịp về Sài Gòn. Khung cảnh trước mắt làm tôi bàng hoàng ngơ ngác: Một cảnh tượng thật tầm thường hiện ra. Tôi nhìn thấy chị, không phải, chỉ là một thiếu phụ xa lạ, hững hờ với dáng điệu khêu gợi đài các và tà áo kim tuyến mỏng óng ánh múa nhẹ nhàng theo từng mỗi bước đi. "Không, không phải chị, chắc mình trông nhầm", tôi nhủ thầm như vậy. Nét mặt chị phải dịu hiền, buồn man mác, nhất là áo chị mặc phải màu tím Huế, một màu tím thật nhớ nhung và dịu buồn xa vắng. Người đàn bà này đâu phải chị Thúy của tôi dạo nào. Tôi không thể nào tin được đó là chị nhưng sự thực đã quá rõ ràng. Tám năm mong đợi để thấy tất cả mọi sự đổi thay trong một tích tắc: Thời gian chỉ còn là một giấc mơ. Tôi nghe hồn mình vỡ tan trong nỗi chán chường, tê tái ; cảm giác choáng váng như tháp ngà ngày thơ của mình bị ai xóa vùi. Trong giây phút đó, tôi mong ước làm sao đừng thấy chị như thế để được giữ nguyên vẹn hình ảnh trong sáng đã có về chị trong ký ức tuổi thơ. Nhưng đã thấy rồi, làm sao xóa nhòa được. Tôi quay đầu chạy trốn sự thực để tìm lại một ảo ảnh. Ngày xưa đó là ảnh thực nhưng hôm nay đã trở thành ảnh ảo.Tôi cúi đầu bước nhanh trong đám bụi mù của đoàn công voa vừa lướt qua... Đường phố Saigon cát bụi tung bay mù mịt...

*

Tôi trở về cố đô, hoài niệm một chiều xa xăm nào cũng nơi này chị dắt tôi đi dưới rặng thông đìu hiu rũ bóng ; ngày ấy cách đây mới tám năm mà tưởng chừng như đã xa lắm rồi. Nước sông Hương vẫn trong xanh, lờ lững. Thuyền xưa vẫn lặng lờ trên bến cũ, như ủ rũ, âu sầu khi vắng bóng những người quen thuộc thân yêu. Huế vẫn có vẻ trầm mặc thâm u của một thành phố lúc nào cũng cúi mặt mỉm cười trước những tang thương dâu biển. Trên cầu Tràng Tiền, một cô gái Huế nghiêng nghiêng vành nón bài thơ, tà áo tím mềm mại thấp thoáng bay trong nắng lụa đào. Tôi dõi mắt nhìn theo cho đến khi mất hút và tưởng chừng như đó là chị ngày nào. Tôi yêu hình ảnh đó, thật thiết tha như yêu tất cả những gì đượm màu sắc quê hương cổ kính còn rơi rớt lại trên đất nước này. Tôi không muốn nghĩ về cảnh xót xa đã qua, chỉ biết một điều duy nhất là dù sao đi nữa mình vẫn thương chị như một "linh hồn xứ Huế". Và trong giây phút đó, tôi chợt thấy tất cả những cái mong manh hư ảo của cuộc đời: những gì đang có và những gì đang mất. Nếu hiểu sống là một biến chuyển không ngừng thì những hiện hữu hôm nay cũng như ở ngày mai không có gì khiến tôi phải bận tâm lắm. Bình minh nào mà chẳng đưa đến hoàng hôn?

Chiều nay bỗng nhiên tôi cảm thấy cô đơn lạ lùng giữa cảnh bến nước đìu hiu vào một ngày tàn thu xứ Huế. Mỗi lần nhớ về chị, không biết sao hình ảnh đầu tiên đến với tôi vẫn là giọng hát trầm buồn như một phiến sầu hoài cổ từ thuở nào rất đỗi xa xưa, tà áo dài thướt tha bay trong mùa thu quê hương có nắng hanh vàng óng ả – Hình bóng thân yêu ấy tôi sẽ giữ mãi trong tim để suốt đời tôn thờ hoài niệm, vì đối với tôi, đó là linh hồn cái đẹp muôn thuở của xứ Huế dịu buồn.


ĐAN THANH THÚY     

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 120, ra ngày 15-12-1969)
 

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2021

Tiếc Nuối

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngày tháng đó bây giờ xa quá nhỉ
Kỷ niệm nhiều nên nhớ mãi không thôi.
Hoa Vông vang đầu ngõ hé môi cười
- "Vườn trên bé sao nhiều cây trái thế!"

Trăng tháng tám Kim Long hiền vô kể.
Nhớ một lần thăm Bé cuối mùa thu.
Cây trái còn xanh chỉ có nước dừa.
- "Dừa trên bé sao mà cao lắm thế!"

Anh Tuấn trèo lên, anh Sơn lễ mễ
Đem buồng dừa năm trái đặt bên hiên.
Bé đứng ngây ngô mắt nhỏ ngoan hiền
Mắt Bé ngọt như dừa anh Tuấn hái.
 
Hàng ớt bên hông nhà sau kết trái
Màu đỏ màu vàng như ráng hồng bay
Anh bé nhắp chơi, rồi khẽ nhíu mày:
- "Ớt trên bé sao mà cay lắm thế!"
 
Chừ thấy lạnh mưa giăng mờ xứ Huế
Kim Long chừ còn Bé đứng vu vơ.
Anh Sơn đi xa, anh Tuấn hải hồ
Vườn dừa đó bây giờ ai hái nữa.
 
Chừ viết lại mà răng buồn nhớ lạ
Tuổi chúng mình bé dại đẹp thần tiên
Khóm ớt hàng cau ngày đó ngoan hiền
"Ngày xưa nhỉ! - Sao giờ xa lắm thế!"

                                              QUANG THI

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 97, ra ngày 15-11-1968)
 
 
 

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2021

Dấu Chân

 

Như chim nhỏ được thoát khỏi chiếc lồng, bé Nhu Mì chạy tung tăng trên đường đất. Trúc bước theo phía sau. Qua khoảng đất vuông vắn trồng rau cải, đến một ngôi nhà nhỏ, sơn màu trắng. Ngôi nhà có vẻ trang trọng nhất trong làng. Trúc biết ngay đó là nhà nguyện. Không, phải gọi đó là một giáo đường nho nhỏ, vì trên đỉnh của mái nhà có một cây Thánh giá.

Không có tiếng chuông. Không nghe lời cầu nguyện. Cát Tường vừa mới dẫn đàn trẻ về nhà ngủ. Cái không khí trầm lặng khiến Trúc cảm nhận một tâm trạng lạ lùng chưa từng có. Khi chân bước khó khăn qua những khoảng đất mềm lún, lên đến bậc thềm đầu tiên của giáo đường nhỏ bé, Trúc tưởng như chỉ có nơi đây, sự bình an là trọn vẹn. Bao năm gian nan chưa có lúc ngừng nghỉ, có phải bây giờ mới thực sự bắt đầu? Bắt đầu làm một người mới, bắt đầu sống, bắt đầu cảm nhận, và bắt đầu tất cả mọi ý nghĩ.

Nhu Mì dừng lại ở cửa chờ Trúc. Bàn tay nhỏ xíu đưa ra nắm lấy bàn tay rắn rỏi. Nhu Mì nhìn Trúc, chợt thấy Trúc nhăn mặt và sờ vào chân. Đôi mắt Nhu Mì mở lớn như có ý hỏi: “anh vẫn còn đau phải không?”. Trúc nhìn lại và cười:

– Đau quá! Đất mềm kéo chân anh lại, suý‎t nữa rơi đôi giày.

Nhu Mì cười thích thú, nhìn lại luống đất ướt nhẹp. Những dấu giày của Trúc lún rõ xuống đó. Bé lắc đầu như muốn nói “không sao đâu!” rồi se sẽ dắt tay Trúc bước vào nhà. Khung cảnh mờ tối vì ngoài trời không còn nắng. Mấy cánh cửa sổ lại đóng kín. Chẳng có ai trong nhà nguyện. Trúc nhìn thấy hai dãy ghế sắp xếp đều đặn, thẳng tắp, dẫn đến tượng Đức Chúa Giê-su phơi mình trên Thập giá. Chỉ có thế. Đó là ngôi giáo đường bé nhỏ ở đây.

Nhu Mì đưa tay làm dấu, rồi nhìn Trúc. Trúc bối rối, nhưng rồi cũng bắt chước theo. Lạy Chúa, nơi đây Chúa yêu thương tất cả, kể cả con chưa biết một câu kinh, chưa hề biết làm dấu Thánh giá. Nhu Mì chỉ cho Trúc ngồi xuống một chiếc ghế. Rồi bé cũng ngồi xuống cạnh bên. Trúc không biết nói gì với bé. Hai anh em yên lặng. Trúc nghe cả tiếng thở nhẹ của Nhu Mì. Đôi mắt tội nghiệp mở to, nhìn thẳng phía trước. Chắc bé đang nói bằng những lời câm nín. Trúc cũng nhìn thẳng phía trước. Không nhìn thấy rõ nét mặt của Chúa. Nhưng cái hình hài dán cứng trên cây Thập giá là cả một sự chịu đựng và hy sinh. Trúc cảm thấy lòng bình yên. Trước mặt Chúa, không còn nhớ quá khứ, không còn lo tương lai. Trước mặt Chúa, không ai là người già, cũng không ai là trẻ nhỏ. Trúc thấy mình nhỏ lại bằng bé Nhu Mì không nhớ gì về thời ấu thơ của chính bé.

Cha Đạo xuất hiện từ sau lưng Thập tự giá – và Trúc đoán ngay là ở đó có một căn phòng nhỏ. Cha đem theo một chút ánh sáng của ngọn bạch lạp cắm trên chân đèn bằng gỗ. Ngoài trời đã hết nắng. Trong này cha Đạo đang đặt ngọn đèn lên chiếc bàn nhỏ để ở góc nhà. Cha nhìn xuống dãy ghế, thấy Trúc và Nhu Mì ở đó. Trúc muốn đứng dậy, nhưng cha đang chậm chạp đi xuống. Bây giờ Trúc mới nhận thấy rõ dáng đi của Cha như có vẻ hơi khập khiễng. Vì Cha đã già chăng? Có lẽ đúng. Ngay lúc đầu gặp Cha, Trúc đã thấy mái tóc của Cha bạc hết phân nửa. Không biết cuộc đời đạo hạnh của Cha bắt đầu từ khi nào. Nhưng chắc chắn Cha sẽ tiếp tục cuộc đời ấy cho đến chết. Vì Cha đã chọn làm người cha chung cho một đàn con nhỏ nơi đây rồi.

– Con vào đây, Cha có cái này muốn tặng con.

Trúc đứng lên, ngạc nhiên:

– Thưa Cha, đi đâu ạ?

– Vào phòng của Cha. Cha muốn tặng con tượng Thánh giá, để con đeo vào cổ. Chúa sẽ bảo vệ con.
Cha Đạo đi trước. Trúc quay lại, nói với bé Nhu Mì:

– Ngồi đây nhé! Anh sẽ trở ra ngay. Anh em mình về lại nhà.
Nhu Mì gật đầu. Trúc bước theo cha Đạo. Bước chân cha Đạo khập khiễng. Chân Trúc cũng nhói đau. Qua khỏi chiếc bàn có để ngọn đèn bạch lạp, hai người vòng ra sau lưng Thập tự giá. Cha Đạo đang mở cửa một căn phòng nhỏ: phòng riêng của Cha.
*

Một mình Nhu Mì còn ngồi trên ghế, hai tay khoanh lại trước mặt. Tâm trí non dại như đặc tràn ý‎ nghĩ. Đàng xa kia, ngọn đèn nến trắng như cũng lao chao. Bóng tối xung quanh nhiều hơn ánh sáng.

Nhu Mì nhướng mắt lên. Sau lưng dường như có ai bước vào. Chắc chị Cát Tường qua thăm chừng Cha, hay đón bé và anh Trúc? Ồ không! Tiếng chân của vài người chứ không phải một mình chị Cát Tường. Nhu Mì quay lại. Có hai người lạ đi với Cát Tường vào nhà nguyện. Hai người đàn ông! Nhu Mì đứng phắt dậy. Cát Tường bước nhanh đến, nắm chặt tay Nhu Mì. Bóng tối không che lấp vẻ sợ hãi trên gương mặt Cát Tường. Bóng tối cũng không làm mờ vẻ nóng nảy trên mắt hai người đàn ông. Nhu Mì ngạc nhiên nhìn, đôi mắt mở to như muốn hỏi “cái gì vậy?”. Cát Tường cố giữ nét bình tĩnh, ôm vai Nhu Mì, đứng yên.
 
Một người cúi xuống nhìn nền nhà, mắt sáng lên khi nhìn thấy dấu giày đinh in trên đó bằng những đất bùn màu nâu đỏ. Cát Tường mím chặt môi, siết chặt vai Nhu Mì bằng đôi tay run rẩy. Dấu giày!!! Trời ơi người đã mang dấu giày đó vào tận nhà nguyện! Ở ngoài kia, trên những luống đất ướt mềm, dấu giày đã in xuống thật rõ ràng. Dấu giày đã làm dấy lên sự nghi ngờ của hai người lạ, sau khi đã khám xét kỹ lưỡng từ phòng ngủ qua nhà cơm, vòng qua nhà bếp, ra đến tận chuồng gà mà không thấy gì hết. Nhưng dấu giày in trên đất nhão đã dẫn họ vào đây. Cát Tường không còn biết nói gì để ngăn cản họ nữa. Ở đây chỉ còn cha tôi – cha Đạo, các ông đã biết. Cha tôi đang cầu nguyện, đừng vào đó làm xao động người. Nhưng dấu giày! Chúa ơi, dấu giày của Trúc!…

– Cha Đạo đâu rồi?

Một trong hai người lạ hỏi to khiến bé Nhu Mì giật mình. Bé trố mắt nhìn Cát Tường, chừng như muốn hỏi thật nhiều về những sự việc xảy ra nãy giờ. Cát Tường nhìn quanh, rồi cố đáp to lên:

– Cha tôi chắc đã ngủ.

– Còn người lính?

– Dạ, người lính nào?

– Cô bé này giả dại, nhưng cô nên biết tụi tôi không phải là con nít.

Cát Tường run giọng:

– Tôi đã nói ở đây chỉ có Cha của chúng tôi.

– Biết rồi, nhưng còn một người nữa.

Hai người đàn ông đẩy Cát Tường và Nhu Mì ra, và xăm xăm đi lên phía tượng Thập tự giá. Bé Nhu Mì ú ớ những âm thanh kinh ngạc. Cát Tường cắn chặt môi đau nhói. Chúa đã bỏ loài người rồi ư? Kìa, đôi giày đinh đang bước ra trước mặt hai người lạ bằng những bước khập khiễng! Hai người kia đứng khựng lại trước tượng Thập tự giá. Cát Tường nhắm mắt. Nhưng một giọng nói trầm tĩnh cất lên làm Cát Tường giật mình:
 
– Xin hai qu‎ý khách đứng lại cho.
 
Giọng của cha Đạo! Cát Tường định thần nhìn lại. Đôi giày kia, cha Đạo đang mang. Cha bước tới. Hai người lạ lui lại. Cha chỉ vào dãy ghế, nói thật điềm đạm:
 
– Mời hai qu‎ý khách ngồi ở đây. Quý‎ khách cần tĩnh tâm?
 
Người này nhìn người nọ, lúng túng. Một người nói:
 
– Xin lỗi cha, chúng tôi vào có hơi đường đột. Nhưng chúng tôi muốn tìm chủ nhân của những dấu giày đinh kia.
 
– Chính là tôi.
 
Người nọ kêu lên:
 
– Cha nói vô lý! Cha là người tu hành, Cha mang giày đó làm gì?
 
Cát Tường nghe nát cả lòng. Cha ơi! Cha đã đến ngõ cụt. Anh Trúc ơi! Phép lạ không còn có ở đây nữa.
 
Cha Đạo không lộ vẻ nao núng, chỉ xuống đôi giày:
 
– Qu‎ý khách muốn biết lý do tôi mang đôi giày này à?
 
– Phải. Cha hãy nói mau đi.
 
– Quý khách đừng nóng. Quý khách biết tôi là ai chứ?
 
– Biết rồi. Cha là cha Đạo, cô bé kia đã khai hết trơn.
 
– Quý khách biết tôi ở đây chăn một bầy trẻ mồ côi chứ?
 
– Biết.
 
– Cha con chúng tôi tự làm vườn rẫy lấy để kiếm thức ăn…
 
Người kia ngắt lời:
 
– Cha lập lại lời cô bé kia vô ích. Chúng tôi chỉ muốn biết ai là chủ của đôi giày này.
 
Cha Đạo thong thả đáp:
 
– Đôi giày này là của con nuôi của tôi.
 
Người kia đứng bật dậy:
 
– Nó đâu?
 
– Nó chết cách nay bốn năm rồi
 
Người lạ trợn mắt chưa tin. Cha Đạo vẫn đều giọng:
 
– Con nuôi của tôi! Vâng, nó đi lính. Nó chết khi tôi mới đem các trẻ mồ côi về đây. Tôi còn giữ được của nó đôi giày này làm di vật.
 
– Cha cũng xem chúng tôi là con nít. Cha mang đôi giày này để nhớ con nuôi của Cha à?
 
– Không!
 
Hai người lạ chịu đựng hết nổi. Nhưng Cha Đạo đang cúi xuống, lặng lẽ mở dây giày. Bàn tay Cha luống cuống không quen. Trái tim Cát Tường thắt lại. Nhu Mì run lẩy bẩy như không đứng vững được. Cha Đạo từ tốn nói:
 
– Quý khách đã biết tôi là Cha Đạo, tôi ở đây chăn một bầy trẻ nhỏ và tự làm vườn, làm rẫy lấy mà sống. Quý khách phải biết thêm rằng các con tôi còn ngây thơ nhỏ dại, tôi không muốn cho chúng nó phải sợ sệt cái hình ảnh tàn tật này. Nhưng quý khách muốn biết đến tận cùng, thì tôi cũng chẳng giấu làm chi.
 
Chiếc giày rơi ra khỏi chân Cha Đạo. Cha thản nhiên kéo vạt áo đen lên tận đầu gối, để lộ cho hai người kia thấy chân trái của người là một khúc gỗ màu xám bệch, bắt đầu từ dưới đầu gối và tận cùng bằng một khối hình thuôn dài như một cái bàn chân.
 
– Đó là lý do thứ nhất để tôi mang đôi giày này. Lý do thứ hai là vì hàng ngày tôi phải ra làm vườn trên đất xốp. Còn mang giày để tưởng nhớ con nuôi tôi… chỉ là cái lý‎ do phụ.
 
Cha Đạo ngồi xuống một cái ghế, nói một mình:
 
– Vả lại ở đây, chỉ có tôi và cái nhà thờ nhỏ xíu này. Không có hội thánh, không có con chiên. Tôi chẳng phải lệ thuộc vào một cách ăn mặc nào hết. Tôi chỉ biết có Chúa, và các con tôi.
 
Một người nói:
 
– Chúng tôi… xin lỗi Cha.
 
– Quý‎ khách muốn viếng mộ con nuôi tôi không? Tôi xin dẫn ra vườn.
 
– Thôi, xin Cha cho chúng tôi kiếu.
 
Cha Đạo vẫn thản nhiên:
 
– Ủa! Quý‎ khách chưa cầu nguyện…
 
Hai người lạ nhìn nhau bối rối. Cha Đạo tiếp:
 
– Quý‎ khách hãy làm dấu đi.
 
– Cám ơn Cha. Tối rồi, Cha cho phép chúng tôi về.
 
Cha Đạo gọi:
 
– Cát Tường! Con đưa giùm hai ông ra.
 
*

Hai người đàn ông bước xuống thềm, nhìn lại. Ánh mắt vừa từ bi vừa lạnh lùng của người con gái làm họ chột dạ. Cát Tường đứng lại ở đó, nhìn hai cái bóng chìm vào đêm đen. Rồi quay vào, Cát Tường đóng kín cửa nhà nguyện. Bé Nhu Mì còn đứng im như chưa hết sửng sốt. Cát Tường dẫn bé bước đến gần cha Đạo. Cha đang cởi nốt chiếc giày còn lại. Cát Tường se sẽ quỳ xuống bên chiếc chân gỗ của Cha. Tự nhiên, nước mắt rơi xuống. Cát Tường khóc ngon lành…

Cha Đạo cất tiếng:

 – Kìa ! Cát Tường, sao lại khóc, con? Khúc chân của Cha, con đã biết từ lâu rồi mà! Có gì đâu mà con khóc?

Cát Tường muốn nói: “Cha ơi, con thương Cha”, nhưng lời nói nghẹn lại ở cổ họng. Nước mắt chảy trên má, nóng như giọt lệ của bạch lạp. Chừng ngước lên, Cát Tường đã thấy Trúc đứng bên cạnh.

 Cha Đạo nhìn Trúc, mỉm cười:
– Con hãy cám ơn Chúa. Chính người đã che chở cho con đó!
 
 
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh       
(Trích truyện dài “Còn Dấu Chân Người”)
   
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 230, ra ngày 1-1-1975)


Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2021

Quê Ngoại

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 Nắng vàng lung linh trên khóm cây
Em ấp niềm vui trong bàn tay
Lần về em thấy lòng vui vẻ
Chả lúc chia xa đã hẹn ngày...

Quê ngoại phù sa đắp đất liền
Gió đồng thổi lộng cảnh thiên nhiên.
Sức sống bông lau, vài cụm mía
Tha hồ chạy nhảy, tuổi hồn nhiên
 
Theo me vui mừng ra bến đón
Xe đưa em đến chốn thân yêu
Ngoại ơi! Giờ con về thăm ngoại
Thăm chốn làng xưa nét yêu kiều.
 
Về đây nép mình trong lòng ngoại
Đêm đông nghe ngoại kể chuyện xưa
Đan tay em sưởi trên bếp nóng
Đầu chụm kề nhau chút hương thừa.
 
Buổi sáng ra vườn nhặt cành gãy
Để sưởi buốt hồn những đêm đông
Mơ màng bâng khuâng trong ký ức
Lớp tuổi thơ ngây của ruộng đồng.
 
                                TRẦN THỊ PHƯƠNG LAN
 
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 142, ra ngày 1-12-1970)
 

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>