Hiển thị các bài đăng có nhãn Trường Đức Minh Văn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trường Đức Minh Văn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2025

Cơn Sóng Định Mệnh (V)


Kiều Uy mở rộng miệng cười:

- Vậy là từ nay con có anh rồi nhé!

Vi Da chớp chớp mắt. Cậu cảm thấy bầu không khí thật đầm ấm và cuộc sống rất đáng sống. Từ nay, cậu có thể hạnh phúc trong vòng tay đùm bọc của gia đình này. Trưa ấy cậu bé thấy ngon miệng và ăn được nhiều cơm.

Thấm thoát đã bao năm qua. Đại dương vẫn hiền hòa, phẳng lặng. Hiểm họa sóng thần tựa hồ đã nhạt nhòa dấu tích trong trí óc con người. Giờ đây, Vi Da là một thanh niên lực lưỡng, Kiều Uy cũng vạm vỡ, cao lớn không kém bạn. Cô bé Sen Ái đã trổ mã, trút nhanh lớp vỏ ngây thơ, nhí nhảnh, dáng đi cô bé trở nên tha thướt, yểu điệu, giọng nói và khuôn mặt dịu hiền quyến rũ. Nhưng hình như trong khoảng thời gian dài đã qua ấy vẫn có một vết hằn sâu nào đó lắm lúc khiến mọi người bâng khuâng. Con người như vẫn chưa quên hình ảnh bi thương tựa như vết khắc tàn bạo phân đôi dòng trôi chảy bình lặng của thời gian - trước và sau sóng thần - Những xao động mãnh liệt trong dĩ vãng vẫn chưa lắng đọng hẳn xuống.

Đã nhiều năm qua, vẫn chưa thấy một ngư dân nào trở về lập nghiệp trên bãi biển hoang vắng. Cát như trắng hơn, mịn hơn và những gợn sóng nhỏ như hiền hòa hơn, nô đùa sủi bọt. Lòng người bắt đầu nhen nhúm hy vọng. Các ngư phủ sống sót nhờ kịp thời nghe theo tiếng chuông lánh nạn lên lâu đài đã di cư cùng vợ con đến bờ biển khác. Họ đã sắm sửa được những chiếc thuyền mới.

Nhưng dù ở đâu họ vẫn nhận rằng không có bờ biền nào tốt hơn bờ biển ngày xưa. Nước ở đó trong và rất sâu, từng đàn cá rủ nhau lội sát vào bờ. Ngư dân không cần phải ra xa. Họ chỉ cần buông lưới, nhất là ở eo biển giữa hai hải đảo, và kéo lên đầy ắp cá.

Từ dạo đó, Kiều Uy và Vi Da ít khi lai vãng đến bãi biển. Họa hoằn lắm chúng mới đi men theo chỗ hồi xưa có con đường trải sỏi trắng tinh, và Vi Da lục lọi xem còn dấu tích nào của nhà chàng may ra trôi giạt vào bờ không. Không còn gì cả. Sóng biển quá khủng khiếp đến nỗi xác người cũng không thấy nổi lên. Lâu dần, hai chàng trai như xa lạ với bãi biển quạnh hiu. Mỗi khi đi tắm biển, họ thường đi lối tắt qua một ngọn đồi khác.

Nhưng Kiều Uy vẫn thấy Vi Da mỗi sáng đứng ngẩn người nhìn ra biển. Hình như chàng muốn tìm kiếm một điều gì đó đã linh cảm sẽ gặp lại. Đến một hôm, chàng tìm thấy. Lúc đó Kiều Uy đang bận xỏ giày, Chàng nghe Vi Da gọi to:

- Kiều Uy ơi, đến xem này!

Kiều Uy vội chạy đến. Vi Da chỉ tay xuống đồi nói:

- Nhìn kìa, có người đang dựng nhà ở bãi biển phải không?

Kiều Uy trố mắt nhìn. Chàng thấy hai người đàn ông đang trồng cột, bên cạnh có một người đàn bà và một đứa bé. Chàng ngạc nhiên hỏi:

- Không lẽ người ta lại dựng nhà ở đó sao?

Cả hai đều nóng ruột, không thể đứng yên nhìn. Họ chạy phăng xuống đồi đến bãi biển. Vi Da hỏi người đàn ông:

- Hai bác dựng nhà phải không?

Cả hai dừng tay và người cao niên nhất gật đầu đáp:

- Vâng. Trước kia cha ông chúng tôi đã sống ở đây; bây giờ đến lượt chúng tôi. Cực chẳng đã, những năm qua chúng tôi phải tá túc trong lâu đài và đánh cá ở những nơi khác. Bây giờ chúng tôi đã chán lắm rồi, chúng tôi muốn có nhà riêng. Với lại, bãi biển ở đây nhiều cá nhất.

- Nhưng lỡ sóng thần trở lại thì sao?

Hai người đàn ông nhún vai:

- Thời ông tổ chúng tôi, sóng thần đã đến tàn phá tất cả, nhưng ông bà chúng tôi vẫn trở về đây sinh sống. Đến thời cha mẹ chúng tôi, sóng thần lại đến, và bây giờ đến thời chúng tôi, chúng tôi vẫn muốn trở về sinh sống trên quê cha đất tổ.

Kiều Uy lo ngại hỏi:

- Thế con cái bác thì sao?

- Biết đâu sóng thần sẽ không bao giờ đến nữa.

Nói rồi, họ lại tiếp tục làm việc. Vi Da đứng chăm chú nhìn họ, khuôn mặt lộ vẻ suy tư. Từ nãy đến giờ chàng không hề hé miệng. Tai ương sóng thần đã biến đổi chàng sâu xa. Chàng không còn cười nói dễ dàng hay bất cẩn như trước nữa, chàng đã học được cách sống hòa đồng với những người thân quá cố như có lần cha Kiều Uy nói. Chàng không còn khóc nữa, trí óc chàng tưởng nhớ họ từng giây từng phút và như thể họ đã đồng hóa làm một với chàng. Khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười của cha, của mẹ, của anh như hòa tan trong máu huyết chàng. Kể từ khi có sóng thần, Vi Da hết còn bé bỏng, chàng thoát xác nhanh chóng. Ở trường chàng chăm chỉ học hành và về nhà chàng tận tâm giúp đỡ công việc đồng áng. Chàng quí trọng mọi điều tốt lành và vì đã chứng kiến sự tàn bạo của sóng thần, nên chàng không thể chấp nhận những điều độc ác. Càng ngày chàng càng trở nên lịch duyệt, từng trải. Chàng không hề cho ai biết nỗi cô đơn của mình vì ngại làm phiền đến người khác. Chỉ có mỗi khi Sen Ái cười nói hay chọc phá chàng, nụ cười của chàng mới tươi sáng, thoải mái.

Bây giờ đứng nhìn hai người đàn ông xây nhà trên bãi biển, Vi Da chợt cảm thấy lòng mình vui rộn rã. Trong đầu chàng xoay chuyển nhiều câu hỏi. Có thật người ta bắt đầu dựng lại nhà trên bãi biển không? Chàng có nên bắt chước họ không?

Từ trên đồi bỗng vọng lại tiếng chân người. Họ ngẩng đầu lên và thấy ông lão quí tộc đang chậm rãi đi xuống. Ông lão đã quá già yếu, bước đi nặng nhọc phải nhờ hai người đầy tớ nâng đỡ.

Người đàn ông cao niên nhất vất cái búa xuống đất nói:

- Ông lão đến rồi đó. Chắc ông lão giận lắm, bằng không đời nào lại chịu rời khỏi lâu đài.

Thân hình ông lão run lên, tay nắm chặt cái gậy. Khi đến gần họ, ông khẽ vuốt râu, dụi mắt. Dạo này trông ông mảnh khảnh như một cành trúc, râu tóc bạc phơ lất phất bay trong gió, giống hệt như một tiên ông ẩn cư trong một cổ tự trên đỉnh núi. Ông hắng giọng nói:

- Sao các người dại thế! Không chịu ở yên nơi nhà lão lại dẫn xác về đây sống với hiểm nguy. Các người bắt chước cha ông các người làm chi, rồi đây sóng thần sẽ tàn phá hết.

Người cao niên nhất ôn tồn đáp:

- Thưa Ngài, biết đâu sóng thần sẽ không đến nữa.

Ông lão run giọng quả quyết:

- Sóng thần sẽ đến lại. Suốt đời lão đã nhiều phen cứu vớt những người ngu dại thoát khỏi sóng thần. Nhưng đến lượt các người, đừng đến nhờ cậy lão nữa nhé!

Đột nhiên Vi Da xen lời vào:

- Thưa Ngài, đây là quê hương của chúng tôi, nơi chúng tôi chôn nhau cắt rún. Dù có hiểm nguy vì núi lửa hay biển cả, chúng tôi vẫn muốn trở về sinh sống ở đây.

Ông lão chăm chăm nhìn chàng hồi lâu rồi hỏi, giọng nhuốm vẻ ngạc nhiên:

- Hình như lão có gặp cậu ở đâu rồi.

Vi Da thẳng thắn đáp:

- Thưa Ngài, cháu đã hân hạnh đến lâu đài cùa Ngài một lần rồi.

Ông lão gật gù nói:

- À, lão nhớ ra rồi, lão muốn nuôi cậu làm con lão. Hà, những người trẻ tuổi mới ngờ nghệch làm sao. Đáng lẽ cậu đã được sống an nhàn nơi nhà lão, cả con cái của cậu nữa. Sóng thần không bao giờ làm hại được lão.

Vi Da lắc đầu đáp:

- Lâu đài của Ngài cũng không có gì bảo đảm. Chỉ cần động đất khá mạnh là sụp đổ như những căn nhà khác. Chúng ta không thể nào tìm được một nơi nào hoàn toàn yên ổn trên hải đảo cả. Chúng ta phải can đảm sống vì không thể làm khác được.

Mấy người thợ đều nói:

- Vâng, cậu nói có lý lắm.

Rồi họ lại tiếp tục làm việc. Ông lão giận dữ nhìn họ một lúc rồi nói:

- Các người nhớ nhé, đừng cầu cứu với lão khi gặp sóng thần.

Vi Da lễ phép thưa lại:

- Ngài giận mà nói thế, chứ cháu biết Ngài bao giờ cũng rộng lượng giúp kẻ hoạn nạn.

Ông lão lắc đầu rồi mỉm cười nói:

- Tiếc rằng cậu không chịu làm con lão.

Rồi ông quay vội về lâu đài và khép kín cổng lại.

Kiều Uy và Vi Da cũng trở về nông trại. Từ ngày ấy cả nhà nhận thấy Vi Da như luôn luôn bồn chồn, lo nghĩ về một điều gì. Họ vẫn nghĩ Vi Da sẽ trở thành một nông phu thành thạo vì chàng đã thấu suốt mọi việc đồng áng và được cha Kiều Uy tín cẩn quí mến. Nhưng Vi Da không thể quên được điều tâm niệm. Một hôm đang làm việc ngoài đồng, cha Kiều Uy bảo chàng:

- Chú biết cháu là một người con  hiếu thảo nên không thể từ bỏ truyền thống của gia đình cháu. Cháu cứ tự nhiên cho chú biết ý định của cháu.

Vi Da thành thật trả lời:

- Dạ cháu muốn sắm một chiếc thuyền để trở lại nghề đánh cá như cha cháu.

Cha Kiều Uy vừa đắp lại những luống cải vừa lẩm bẩm:

- Quả thực sự sống mạnh hơn sự chết.

Từ hôm đó, cả nhà biết là một ngày kia Vi Da sẽ trở lại với biển cả và sẽ dựng nhà trên bãi biển. Ở đấy bắt đầu đã có nhiều ngôi nhà dựng lên, thô sơ và rất mỏng manh như những hộp đồ chơi trẻ con, chỉ cần một đợt sóng thần cũng đủ kéo sập và cuốn trôi đi tất cả. Tuy vậy cũng tạm che được mưa nắng làm nơi trú ngụ cho gia đình ngư dân. Và cũng như ngày xưa, không có căn nhà nào có cửa sổ trông ra biển. Mỗi gia đình lại dựng nhà trên mảnh đất của tổ tiên họ. Phía cuối dãy còn chừa một khoảng đất thuộc quyền sở hữu của Vi Da, trước kia thuộc về cha chàng.

Một buổi tối nọ, Vi Da thố lộ cho cả gia đình Kiều Uy biết:

- Khi nào sắm được thuyền, cháu sẽ cất một ngôi nhà ở đó.

Cha Kiều Uy tiếp lời:

- Từ hôm nay, chú sẽ trả lương cho cháu vì cháu đã trưởng thành rồi.

Từ đó Vi Da dành dụm tiền để mua thuyền. Không bao lâu mộng ước của chàng thành sự thật. Chiếc thuyền rất tốt, dáng thon thon, gỗ chắc chắn và cột buồm mới tinh. Hôm mới mua thuyền, chàng rủ Kiều Uy chèo thuyền ra eo biển. Giữa biển cả mênh mông, chưa bao giờ Vi Da cảm thấy hạnh phúc đến thế. Riêng Kiều Uy không quên được giòng nước giá lạnh ở dưới sâu. Nhưng chàng không nói điều đó với bạn, ngại làm bạn mất vui.

Vi Da tâm sự với Kiều Uy:

- Tớ vẫn luôn tự nhủ một ngày kia sẽ trở về với biển cả, hôm nay tớ đã hoàn thành được mộng ước. Này Kiều Uy...

Vi Da bỏ lửng câu nói, mặt chàng bỗng đỏ gay lên. Kiều Uy ngạc nhiên nhìn bạn. Mãi một lát sau Vi Da mới ấp úng nói:

- Sen Ái có sợ sống gần biển không Kiều Uy nhỉ?

Kiều Uy ngac nhiên hỏi lại cho rõ:

- Tại sao Sen Ái phải sống gần biển?

Mặt Vi Da càng đỏ gay lên, nhưng chàng nghiêm trang nói:

- Tại vì tớ sẽ dựng nhà trên bãi biển và muốn xin phép cưới Sen Ái làm vợ.

Kiều Uy sửng sốt đến há hốc miệng ra. Chàng trố mắt nhìn bạn, Sen Ái là em gái chàng và chàng không thể nào tin nổi Sen Ái lại có thể làm vợ bất cứ ai. Chàng lại không thể tin nổi có người muốn cưới Sen Ái làm vợ. Con bé tính tình vô ý vô tứ, lại hay chọc phá trêu ghẹo, nhiều khi còn giấu đồ đạc của chàng khiến chàng phải tìm kiếm đến bở hơi tai.

Chàng thành thực ngăn bạn:

- Cậu có điên mới cưới Sen Ái.

Vi Da cười:

- Cậu khác, tớ khác.

Kiều Uy thắc mắc:

- Nhưng tại sao cậu lại muốn cưới Sen Ái?

- Bởi vì Sen Ái làm cho tớ vui vẻ và yêu đời. Chính Sen Ái đã giúp tớ quên được sóng thần. Sen Ái lả lẽ sống của tớ.

Kiều Uy chép miệng:

- Nhưng Sen Ái nấu ăn dở lắm, lại hay để cơm cháy vì ham nói chuyện không đâu.

- Tớ không quan tâm đến chuyện cơm cháy lắm. Tớ yêu Sen Ái.

Kiều Uy nhìn bạn lắc đầu. Chàng thấy thương hại cho Vi Da quá. Vi Da làm nhà, chuyện có thể tin được. Vi Da muốn cưới Sen Ái,,, thật hết nước nói.

Vừa về đến nhà, chàng đến gặp cha báo tin ngay:

- Này ba, Vi Da muốn cưới Sen Ái làm vợ đấy, con bé Sen Ái...

Cha chàng đang chọn lựa hạt giống vì đã đến tiết Xuân. Ông cười dí dỏm ngắt lời ngang:

- Ba biết hai đứa có tình ý với nhau từ lâu rồi!
 
- Sao Vi Da lại đối xử tốt với Sen Ái vậy ba?

- Thì Sen Ái xinh quá mà!
 
- Xinh gì? Con chả thấy xinh gì cả. Ba cứ trông cái mũi ngớ ngẩn của Sen Ái thì biết.

- Ấy, Vi Da yêu cái mũi ấy đấy!
 
Kiều Uy thở dài:

- Con không thể hiểu nổi. Con bé Sen Ái lại hay giấu đồ và chọc phá Vi Da. Nhiều khi con thấy tội nghiệp cho Vi Da quá.

- Ấy, Vi Da lại khoái được Sen Ái giấu đồ và chọc phá đấy!

Kiều Uy đưa hai tay lên trời lắc đầu:

- Con thật không hiểu ba muốn nói gì.

Cha Kiều Uy mỉm cười thích thú. Ông giải thích:

- Một ngày kia rồi con sẽ hiểu. Con còn nhớ lời ba nói không? Sự sống mạnh hơn sự chết, bây giờ là lúc Vi Da sẵn sàng làm lại cuộc đời đó.

Và rồi, vào một ngày mùa hạ, lễ cưới của Vi Da và Sen Ái được cử hành. Kiều Uy vẫn không hiểu gì cả. Ngay trong những ngày cuối trước hôn lễ, Sen Ái vẫn chứng nào tật ấy, nghịch ngợm, chọc phá. Và cả hôm lễ cưới, Sen Ái còn giấu mất lược của chàng. Kiều Uy bực mình nói:

- Anh không thể hiểu sao Vi Da lại có thể yêu em được, Nghịch ngợm, chọc phá, hay giấu đồ, nấu ăn dở... Rước em về đúng là rước của nợ.

Sen Ái nghiêng nghiêng đầu nhìn chàng, lưỡi lo le như lêu lêu chế nhạo. Đôi mắt bồ câu mở lớn rạng rỡ:

- Anh lầm to rồi. Em đối xử rất tử tế với anh Vi Da mà!

Rồi việc đâu cũng vào đó, lễ cưới hoàn tất và cả gia đình đưa tiễn đôi tân hôn về ngôi nhà mới cất trên bãi biển, Kiều Uy bỗng thấy buồn buồn. Vắng Sen Ái chắc nông trại trống trải lắm và chắc chàng sẽ nhớ em gái nhiều. Có lẽ mỗi ngày chàng sẽ phải xuống đây thăm em gái và Vi Da. Từ đây sẽ không còn bóng dáng reo vui của Sen Ái ở nhà bếp, buồng ngủ, vườn cây. Chắc chàng sẽ nhớ đến cả những lần bị em gái trêu chọc. Tự nhiên chàng thấy lo cho em gái. Nhỡ ra sóng thần lại đến thì sao?

Khi mọi người đến căn nhà mới cất, Kiều Uy hỏi Vi Da:

- Này Vi Da, nhỡ ra sóng thần lại đến thì sao?

- Anh đừng lo, em đã tiên liệu hết rồi.

Vi Da chỉ cho cả nhà xem căn phòng đối diện với biển cả. Căn phòng lớn nhất nhà, vừa là phòng ngủ ban đêm vừa là phòng ăn, và cũng là nơi làm việc ban ngày. Vi Da đẩy tấm chăn qua một bên. Trước mặt họ biển xanh đang dâng sóng mênh mông, nhấp nhô trắng xóa theo gió chiều. Mặt trời đỏ ối chìm dần xuống biển sâu. Ở chân trời những áng mây vàng lơ lửng thênh thang. Mọi người đăm đăm nhìn ra biển. Vi Da lên tiếng:

- Con đã cất nhà nhìn ra biển. Nếu sóng thần đến con sẽ kịp thời chuẩn bị. Con sẽ mạnh bạo đương đầu với sóng thần. Con không sợ.

Cha Kiều Uy vỗ vai Vi Da khen:

- Cha biết con là người tháo vát và rất can trường.

Cha con Kiều Uy ra vè. Gió buổi chiều mát rượi, những hạt cát nhỏ chạy lăn tăn trên bãi biển tạt vào chân hai người. Kiểu Uy vừa đi vừa lẩm bẩm: quả thật sự sống mạnh hơn sự chết.

Phía sau xa, Vi Da đang nắm tay Sen Ái nhìn theo. Căn nhà của họ lung linh trong nắng chiều...


TRƯỜNG ĐỨC MINH VĂN    

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 192, ra ngày 1-1-1973)

Cơn Sóng Định Mệnh (IV)


- Con đừng ích kỷ thế, Kiều Uy. Chúng ta phải muốn điều tốt cho Vi Da.

Nói rồi cha Kiều Uy xoay qua ông lão quí tộc:

- Thưa ngài, chúng tôi thành thật cám ơn ngài đã đối xử tốt với Vi Da và không biết làm sao đền đáp. Trước kia chúng tôi cũng có ý định nhận cậu ấy làm con nhưng thật tình chúng tôi quá nghèo nên khó có thể nuôi nấng và cho Vi Da học đàng hoàng như Ngài được. Vì vậy, ngày mai khi Vi Da thức giấc, chúng tôi sẽ nói rõ lòng ưu ái của Ngài đã dành riêng cho cậu, và để cho cậu tự do quyết định.

- Tốt lắm. Ngày mai cứ bảo cậu ấy đến gặp lão và trả lời cho lão hay. Đích thân cậu ấy nói, lão sẽ biết được ý định của cậu ấy.

- Vâng. Ngày mai Vi Da sẽ đến hầu chuyện với Ngài.

Kiều Uy buồn thiu khi nghĩ đến ngày mai Vi Da sẽ bỏ cậu vào sống trong lâu đài. Cậu trách móc cha:

- Vi Da đi thì con hết có anh rồi!

- Kiều Uy, con không được ích kỷ thế. Con phải để cho Vi Da tự do quyết định. Cố gắng thuyết phục cậu ấy là sai lầm. Ngày mai, ba cấm con không được bàn với Vi Da về vấn đề này. Khi Vi Da tỉnh dậy, chính ba sẽ đích thân nói chuyện với cậu ấy.

Kiều Uy nín thinh. Cậu không dám hó hé mỗi khi thấy cha tỏ ra nghiêm nghị như thế. Cậu bỏ đi ngủ mà lòng buồn rười rượi. Cậu tự nghĩ đêm nay chắc sẽ thức trắng quá, nhưng rồi giấc ngủ đến với tuổi trẻ của cậu lúc nào không hay.

Buổi sáng, vừa thức dậy, cậu đã nhớ đến giây phút Vi Da sắp phải chọn lựa. Cậu bước xuống giường, rửa mặt, thay quần áo rồi xếp chăn vào tủ. Cậu ra đồng làm việc ngay, đến nơi đã thấy cha cậu đứng đó tự bao giờ. Buổi sáng hôm nay đẹp trời, gió nhẹ thoảng qua mát rượi, không khí trong vắt tựa như không có một hạt bụi. Xa xa, mặt biển lờ mờ dưới làn sương mỏng.

Sau khi trao đổi những lời chúc ban sáng, cậu bé hỏi thăm cha:

- Vi Da dậy chưa ba?

- Chưa, có lẽ cậu ấy cũng sắp dậy rồi.

Kiều Uy giúp cha dẫy cỏ ở những luống cải.

- Ba sẽ nói chuyện ngay với Vi Da khi cậu ấy thức dậy. Chúng ta không nên để cậu ấy quen dần rồi xem nhà mình như nhà cậu ấy. Điều đó không tốt chút nào. Cậu ấy phải quyết định ngay hôm nay trước khi có những ràng buộc mới.

- Thế con có được phép có mặt ở đó khi ba nói chuyện với Vi Da không?

- Không, con không được phép. Ba sẽ nói riêng với cậu ấy. Ba sẽ trình bày rõ ràng những điều thuận lợi mà ông lão quí tộc sẽ dành riêng cho cậu ấy và tất cả những thiếu thốn nếu cậu ấy chấp nhận ở đây.

Kiều Uy cảm thấy tức bực, cổ cậu nghẹn lại, cậu cho rằng cha cậu quá ngay thẳng, nhiều khi không đúng cách. Cơn tức bực dày vò khiến cậu bật khóc:

- Vậy là Vi Da sẽ rời khỏi nhà mình hả ba?

- Đành vậy con ạ.

Cả hai cha con  nín lặng trở về nhà ăn sáng. Kiều Uy không muốn ăn uống gì cả. Sau bữa cơm, cậu bé trở ra đồng ngay, hôm nay cậu không thích đùa giỡn chút nào. Cha cậu ngồi trầm ngâm nơi bực cửa. Trong phòng có tiếng Vi Da thức giấc.

Một mình Kiều Uy cắm cúi làm việc ngoài đồng. Những giọt lệ nóng hổi lăn tròn trên hai má, rơi xuống đất. Cậu vẫn để mặc, cố gắng hết sức làm việc và nhất quyết chỉ trở về nhà khi nào có tiếng cha gọi. Mãi đến gần trưa tiếng cha cậu mới vang lên. Lúc ấy ánh sáng đã chói chang và mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Cậu chạy vội trên đường để trở về nhà. Đến cổng đã thấy cha cậu và Vi Da đứng đợi. Khuôn mặt Vi Da vẫn còn xanh xao, đôi mắt hoe đỏ. Đã khá lâu rồi Vi da mới khóc lại.

Nhìn thấy Kiều Uy, Vi Da lại khóc, thấp thoáng sau làn nước mắt, Kiều Uy thấy đôi mắt Vi Da mở lớn nhìn cậu. Cha Kiều Uy ôn tồn  bảo:

- Vi Da, cháu cứ khóc đi. Khóc được là vơi đi nỗi khổ. Gặp chuyện buồn mà không khóc được là chưa trở lại bình thường đâu. Cháu cứ thoải mái khóc.

Rồi ông quay sang bảo Kiều Uy:

- Ba đã nói hết với Vi Da rồi và muốn cậu ấy quyết định sau khi nhìn thấy bên trong lâu đài. Ba muốn cậu ấy nhìn thấy tận mắt tất cả những tiện nghi mà ông lão quí tộc sẽ dành cho cậu - ông quay sang Vi Da - Còn như ở đây, chỉ có bốn phòng nhỏ, một cái bếp con con và cả gia đình chú phải làm lụng vất vả mới có cái ăn cái mặc. Cháu thấy đó, gia đình chú không có dư dả.

Ông chìa hai tay ra cho chú xem, lòng bàn tay thô kệch và chai đá vì làm việc nặng nhọc nhiều. Rồi ông nói tiếp:

- Kiều Uy, con hãy đi theo Vi Da đến lâu đài và nhớ khuyên Vi Da ở lại đó, điều ấy có ích cho Vi Da.

Nghe thế Kiều Uy Cảm thấy đau lòng, công việc ấy đối với cậu nặng nhọc quá. Cậu tìm cách nói lảng đi:

- Ba để con vào tắm rửa và thay quần áo mới nhé.

- Không, con cứ mặc nguyên như thế mà đi. Ba muốn thấy con là con một bác nông phu.

Hai đứa bé dắt tay nhau đi xuống đồi. Chúng cố tình lẩn tránh bãi biển hoang vu, tìm đường tắt đi lên lâu đài. Cánh cửa mở rộng để lộ một ngôi vườn đẹp và sang trọng. Gã làm vườn đang chăm chú quét sạch lớp rêu, chợt thấy hai đứa bé vội chận lại:

- Hai ranh con đi đâu vậy?

Kiều Uy ấp úng trả lời:

- Ba tôi sai tôi đến gặp ông lão quí tộc.

- Thế mày có phải là con Uyên Sĩ Đại Gia không?

- Vâng, còn đây là Vi Da muốn đến gặp ông lão quí tộc.

Gã làm vườn khom người chòa Vi Da và sửa giọng nói cho lịch sự:

- Xin mời hai cậu theo tôi.

Hai đứa bé theo gã đi trên con đường nhỏ trải sỏi trắng tinh, hai bên có hàng thông cao rợp bóng. Vườn bông trong lâu đài rung rinh trong ánh nắng, tỏa hương dịu dàng quyến rũ. Hồ nước trong veo đang yên lặng để những cánh hoa soi bóng.

Kiều Uy thì thầm vào tai bạn:

- Đẹp quá nhỉ?

Vi Da không trả lời, cậu bé bước đi nặng nhọc, đầu cúi gằm xuống. Đến đại sảnh, cả hai cởi hết giày dép ra và theo gã làm vướn bước vào cổng lớn. Vào tới trong, gã làm vườn dừng lại, một tên đầy tớ khác tiến ra. Gã làm vườn bước lại thì thầm vào tai y. Lập tức y cúi đầu niềm nở:

- Xin mời hai cậu theo tôi.

Cả ba đi dọc theo một hành lang dài, hai bên tường bằng gỗ quí chùi bóng như gương. Trên nền nhà trải một tấm thảm mượt nhiều màu sắc bước đi êm ái hơn cả lớp rêu ngoài vườn. Dọc hai bên hành lang có gắn những tấm cửa kính lớn, bên trong là những căn phòng lộng lẫy chưng bày những bình bông tươi, những bức tranh quí giá và những bộ bàn ghế cở bằng mun đen bóng. Cả hai cậu bé chưa hề thấy một căn nhà nào đẹp và sang trọng đến thế. Kiều Uy nuốt nước miếng, làm sao Vi Da có thể rời bỏ nơi này để về nhà cậu đây.

Từ xa, chúng thấy ông lão quí tộc đang ngồi trên một chiếc bàn nhỏ hí hoáy viết. Cửa sổ phía sau ông mở rộng và căn phòng ông như sáng rực lên với vườn hoa muôn sắc trông như cảnh thần tiên. Ông lão đang cẩn thận dùng bút lông vẽ những đường nét thanh tú trên bức lụa trắng ngần. Sống mũi ông trễ nải gọng kính vàng óng ánh.

Nghe tiếng chân, ông lão ngước lên, tháo kính ra và đặt bút xuống.

- Các cháu có biết lão đang viết gì đây không?

Cả Kiều Uy và Vi Da đều im lặng. Chúng không biết trả lời sao. Trong căn phòng mênh mông này, sự yên lặng và sự sang trọng làm ông lão nổi bật lên. Người ông cao và mảnh khảnh. Đầu tóc ông bạc phơ, khuôn mặt và hai tay gầy, thanh thoát với làn da mỏng manh và những chiếc xương nhỏ. Toàn thân ông toát ra sự oai nghiêm của bậc vương giả nhưng đôi mắt lại là đôi mắt của một nhà thông thái, sáng ngời vẻ thông minh.

Ông lão khoan thai giải thích:

- Đó không phải là một bài thơ của lão làm ra, mà là một danh ngôn xứ Ấn Độ. Lão rất thích câu này nên phải viết vào đây và treo trên đầu giường để nhìn thấy mỗi ngày.

Ông lão đưa cao bức hoành phi cho chúng xem rồi ngâm nga đọc:

- Con cái của Thượng Đế rất quí hóa nhưng cũng rất lạ kỳ, rất xinh đẹp nhưng cũng rất hẹp hòi.

Ông chăm chăm nhìn hai đứa bé rồi nói:

- Các cháu nghĩ thế nào?

Chúng nhìn nhau dò hỏi. Cuối cùng Vi Da cảm thấy lớn hơn Kiều Uy nên trả lời:

- Thưa Ngài, chúng cháu không hiểu gì cả.

Ông lão gật gù ra vẻ thích thú rồi bảo:

- Tất cả chúng ta đều là con cái của Thượng Đế cả ấy mà.

Nói rồi, ông lão mang kính vào để nhìn rõ Vi da hơn rồi hỏi:

- Tốt lắm, cháu có muốn làm con lão không?

Mặt Vi Da vụt đỏ như gấc. Cậu bé không ngờ ông lão lại hỏi cậu đột ngột và thẳng thắn như vậy.

Ông lão nhận thấy vẻ khó khăn của Vi Da nên bảo:

- Cháu chỉ việc trả lời có hay không. Cháu đừng ngại.

- Thưa ngài, cháu xin trả lời không.

Nói rồi Vi Da mới cảm thấy câu trả lời hơi tàn bạo, nên vội nói thêm:

- Cháu hết lòng cám ơn Ngài, nhưng thưa Ngài cháu đã có một mái nhà êm ấm ở nông trại rồi.

Nghe câu trả lời của bạn, Kiều Uy muốn hét to lên vì vui. Cậu quên bẵng đi sóng thần, tất cả mọi hiểm nguy và trong giây phút ấy, cậu muốn nhảy cỡn cho thỏa chí. Nhưng rồi cậu sực nghĩ đến gia đình, đến bốn căn buồng nhỏ và cái bếp con, cậu trịnh trọng nói với Vi Da:

- Này Vi Da, cậu đừng quên nhà tớ nghèo lắm đó.

Ông lão mỉm cười, thoảng có chút buồn bã phảng phất trên đôi môi già nua:

- Quả thật họ nghèo lắm đó Vi Da. Còn nếu cháu ở lại đây, cháu sẽ có đủ mọi thứ và cháu có thể mời bạn cháu thỉnh thoảng lại chơi. Riêng lão, lão sẵn lòng để cháu giúp đỡ gia đình họ ít tiền bạc. Với tư cách là con lão, việc cháu giúp người nghèo là rất hợp lý.

- Thưa Ngài, những kẻ đã may mắn thoát khỏi sóng thần hiện giờ ở đâu?

- Một số đã ra đi, một số vẫn còn tạm trú trong dãy nhà dành riêng của lão.

- Tại sao Ngài không mời họ vào đây và nhận họ làm con cái của Ngài?

- Bởi vì lão không muốn. Cháu tưởng ai muốn làm con của lão cũng được ư? Chỉ vì cháu thông minh tuấn tú nhất làng nên mới được chọn.

Vi Da nhìn ông lão rồi lắc đầu nói:

- Cháu cũng đâu có hơn gì kẻ khác. Cháu chỉ là con của một ngư phủ thôi.

Ông lão chậm chạp đeo kính vào và cầm bút lông lên, nói bâng quơ:

- Thế cũng được, lão đành không có con vậy.

Người đầy tớ ra dấu cho hai đứa bé theo gã ra ngoài. Gã xỉa xói:

- Tao chưa thấy ai ngốc hơn mày, ranh con ạ. Ông cụ là người rất tốt, ở đây mày sẽ có đủ mọi sự.

- Điều đó thì chưa chắc đâu.

Hai đứa bé ra khỏi cổng rồi băng đồi về trại. Sen Ái đang đứng đợi chúng trước nhà. Thấy hai cậu, cô bé hấp tấp chạy ra, hai tay áo Kimono rộng thùng thình phất phơ trong gió, tiếng guốc gỗ reo vui trên mặt đất. Cô bé reo to:

- A, anh Vi Da trở về, anh Vi Da trở về.

Vi Da đón cô bé trong vòng tay và hôn một cái thật kêu lên khuôn mặt rạng rỡ. Lần đầu tiên trong đời, cậu bé thấy xúc động và an ủi vô cùng. Từ đây Sen Ái sẽ là nguồn vui trong đời cậu.

Trong phòng, bữa cơm trưa đã dọn sẵn. Cha Kiều Uy từ đồng ruộng trở về, lau sơ mình rồi cùng gia đình dùng cơm. Ông âu yếm nói với Vi Da:

- Cháu làm cho gia đình sung sướng lắm.

Mẹ Kiều Uy cũng nói:

- Thím thấy sung sướng hơn bắt được vàng.

__________________________________
Xem tiếp PHẦN V  

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 191, ra ngày 15-12-1972)

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2025

Cơn Sóng Định Mệnh (III)


Sen Ái phụng phịu trở ra, vừa đi vừa mút tay, hai mắt láo liên nhìn Kiều Uy và Vi Da. Lát sau bà mẹ bưng lên cho Kiều Uy một tô cháo nóng. Cậu bé húp sùm sụp và cảm thấy lòng ấm lại. Bây giờ cậu bé đã ngưng khóc, nhưng còn run và tâm hồn buồn tê tái. Cậu bé băn khoăn hỏi cha:

- Lát nữa Vi Da tỉnh dậy, con phải nói sao với Vi Da đây ba?

- Con đừng nói gì cả. Cứ để yên cho Vi Da dùng thức ăn nóng và nằm nghỉ. Chúng ta phải cố gắng làm cho Vi Da cảm thấy có một gia đình, có những người thân như xưa và được đùm bọc.

- Vi Da sẽ ở luôn tại nhà mình hở ba?

- Ừ, ba vẫn ao ước có thêm một đứa con trai như Vi Da. Bao giờ cậu ấy trở lại bình thường chúng ta sẽ giúp cho cậu ấy bằng lòng chấp nhận những gì đã xảy ra.

Và rồi họ nhẫn nại ngồi chờ Vi Da hồi tỉnh. Kiều Uy bỗng thốt lên:

- Con nghĩ rằng Vi Da sẽ không bao giờ tìm lại được hạnh phúc.

- Không đâu. Rồi con xem, một ngày kia Vi Da sẽ tìm được hạnh phúc. Bởi vì, sự sống vẫn luôn luôn mạnh hơn cái chết. Lát nữa đây Vi Da sẽ hồi tỉnh, cậu ấy sẽ cảm thấy bất hạnh ghê gớm tưởng chừng như tuyệt vọng. Cậu ấy sẽ khóc lóc và chúng ta cứ để cho cậu khóc. Nhưng rồi cậu ấy sẽ không thể khóc mãi được, cậu chỉ còn khóc từng lúc. Chúng ta nên tôn trọng nỗi buồn của cậu và đừng nhắc nhở lại những gì đã xảy ra. Công việc hàng ngày chúng ta vẫn tiếp tục. Đến một lúc nào đó cậu ấy sẽ cảm thấy đói và dùng những thức ăn mẹ con nấu riêng cho cậu, sức khỏe sẽ dần dà bình phục. Ban ngày cậu ấy sẽ không khóc nữa, chỉ khóc ban đêm thôi. Dần dà với thời gian, cậu ấy sẽ hồi sinh, máu huyết luân lưu mạnh mẽ, xương cốt cứng cáp hơn và tâm trí bắt đầu làm việc lại.

- Nhưng mà làm sao Vi Da có thể quên được cha mẹ và anh cậu?

- Cậu ấy sẽ không quên đâu, mà cũng không nên quên như thế. Cậu ấy đã sống với họ như thế nào thì khi họ chết đi cậu ấy sẽ sống với họ như vậy. Một ngày kia cậu ấy sẽ chấp nhận cái chết của họ như một phần sự sống của chính cậu. Cậu ấy sẽ không khóc lóc nữa nhưng sẽ ghi khắc hình bóng họ trong tâm tưởng. Thịt xương cậu là một phần thịt xương họ. Bao lâu cậu còn sống, bấy lâu họ còn sống trong cậu. Sóng thần đến rồi đi, và trời lại sáng, chim lại ca hát và đất sẽ nở hoa. Bây giờ con hãy nhìn ra biển kìa.

Qua cửa sổ, Kiều Uy thấy mặt biển phẳng lặng, êm đềm, nhấp nhô vài làn sóng bạc dưới ánh nắng. Trời cao và xanh. Một vài ráng mây ở chân trời lẩn quẩn hình bóng của tai ương vừa qua. Bãi biển vẫn hoang vắng.

Kiều Uy nói với cha:

- Sao ông trời ác nghiệt vậy ba? Bây giờ thì làm bộ quang đãng, hiền lành, chả bù...

Nhưng cha cậu lắc đầu bảo:

- Không phải vậy đâu con, may mắn cho chúng ta là sau cơn bão trời lại sáng và biển lại lặng sóng. Không phải biển hay trời gây ra tai ương đâu.

- Thế ba bảo ai?

Nói thế rồi cậu bé òa lên khóc rưng rức. Có quá nhiều chuyện cậu không thể hiểu nổi, chỉ có một mình cha cậu thấy và hiểu thôi.

- Không ai biết được vì sao có tai ương. Chúng ta chỉ biết mỗi khi tai ương xảy ra, chúng ta phải tỏ ra can đảm để đối phó, và khi tai ương đã đi qua, chúng ta sẽ thấy cuộc sống đẹp đẽ hơn, nhiều ý nghĩa hơn khi chưa có tai ương.

- Nhưng cả nhà Vi Da, cha mẹ, anh và cả những ngư phủ hiền lành kia, họ có làm gì đâu mà phải chết tức tưởi.

Cậu bé vẫn không quên được cái chết ám ảnh.

- Con ạ, đừng thắc mắc nữa. Bây giờ chúng ta cần phải săn sóc cho Vi Da trước. Khi nào cậu ấy tỉnh dậy, chúng ta nên có mặt chung quanh cậu ấy đầy đủ. Con sẽ là em của cậu ấy và ba sẽ là cha của cậu ấy. Con đi gọi mẹ và Sen Ái lên đây cho ba.

Vi Da vẫn nằm bất động, hai mắt nhắm nghiền, khuôn mặt nhợt nhạt. Hình như cậu đang khóc trong giấc ngủ. Kiều Uy chạy vội đi tìm mẹ và Sen Ái. Cả nhà vây quanh Vi Da chờ đợi, Ít phút sau, mi mắt Vi Da khẽ rung động rồi mở lớn nhìn ngơ ngác. Cậu bé không biết hiện giờ đang ở đâu. Qua làn nước mắt đẫm ướt hai gò má xanh xao, cậu nhìn mọi người như kẻ xa lạ. Cậu nhìn quanh quất trần nhà, tường vôi trắng, rồi lại nhìn chiếc chăn bông dang đắp trên người.

Tất cả đều giữ im lặng và chờ đợi. Nhưng Sen Ái không thể kiên nhẫn lâu hơn, cô bé vỗ tay reo:

- A, anh Vi Da đã tỉnh lại rồi. Anh Vi Da ơi, vừa rồi anh có mơ thấy gì không?

Tiếng reo cười của cô bé làm Vi Da sực tỉnh. Cậu bé bật khóc và rên rỉ:

- Ba mẹ ơi, ba mẹ ơi!

Mẹ Kiều Uy vội cầm lấy tay cậu vỗ về:

- Nín đi con, từ nay thím sẽ là mẹ con.

Cha Kiều Uy tiếp lời:

- Chú sẽ là ba của con.

Kiều Uy cũng ấp úng nói:

- Còn chúng ta sẽ là anh em với nhau.

Sen Ái cũng reo lên vui mừng:

- Ồ vui quá, Vi Da sẽ ở lại nhà mình.

Bấy giờ Vi Da chợt hiểu. Cậu bé tuột xuống giường, đi đến cửa sổ nhìn ra biển. Bãi biển xưa kia có ngôi làng nhỏ bé, bây giờ hoang liêu với ít cột trụ và gạch đá ngổn ngang. Sóng biển hiền hòa đùa giỡn trên cát trắng đẩy đưa vài mảnh ván vụn.

Cả gia đình đến đứng cạnh Vi Da. Kiều Uy bối rối không biết nói gì với Vi Da, lòng bồi hồi xúc động. Mẹ Kiều Uy chớp chớp mắt, hai hạt lệ đọng khẽ trên rèm mi cong vút. Cô bé Sen Ái cũng cảm thấy buồn tê tái. Cô bé cầm lấy tay Vi Da và ve vuốt trìu mến:

- Anh Vi Da này, em sẽ cho anh con vịt cưng của em.

Cô bé cố gắng an ủi Vi Da, nhưng cậu bé vẫn nín thinh, ánh mắt cậu ngập tràn vẻ tư lự nhìn ra biển khơi chập chùng. Cha Kiều Uy vỗ về cậu:

- Vi Da này, con chịu khó ăn miếng cháo cho chóng khỏe nhé.

Mẹ Kiều Uy cũng nói:

- Cả chúng ta cũng phải ăn cái gì cho khỏi đói chứ. Tối nay có thịt gà ngon lắm.

Sen Ái nũng nịu nói:

- Mẹ ơi con đói rồi.

Cha Kiều Uy bảo Vi Da:

- Nào Vi da, con vào đây với ba.

Cả gia đình ân cần mời mọc Vi Da. Cuối cùng cậu bé vào phòng ăn với mọi người.

Vi Da ngồi yên, cậu đã tỉnh táo hẳn. Cậu nghe thấy cả nhà trò chuyện, cậu biết Kiều Uy đang ngồi cạnh cậu nhưng hồn cậu bay bổng tận đâu đâu. Cậu cảm thấy uể oải lạ lùng, không muốn nói năng gì cả. Cậu biết rằng từ đây cậu sẽ không bao giờ gặp lại những người thân yêu, cha mẹ và anh, những người hàng xóm, những bạn bè vẫn thường rong chơi với cậu. Cậu cố gắng đừng nghĩ đến họ, đến thân xác họ giờ đây không biết trôi giạt phương nào.

Kiều Uy thì thầm vào tai cậu:

- Ăn đi Vi Da, thịt gà ngon lắm.

Chén của Vi Da còn nguyên. Cậu không cảm thấy đói, nhưng nghe Kiều Uy ân cần mời mọc, cậu cũng cầm lấy thìa, ăn một chút cháo. Mùi cháo nóng tỏa lên ngào ngạt, mùi gừng thơm nhẹ khiến cậu dễ chịu. Cậu ăn thêm một chút nữa rồi cầm đũa gắp thịt. Tuy nỗi buồn còn làm tê liệt trí óc nhưng nhờ còn trẻ và khỏe mạnh nên Vi Da ăn được khá nhiều.

Ăn xong, Kiều Uy rủ bạn:

- Ra đồi chơi nha Vi Da.

Nhưng Vi Da lắc đầu:

- Vi Da chỉ muốn ngủ thôi.

Cha Kiều Uy thông cảm nói:

- Đúng đấy, con nên đi ngủ đi Vi Da. Giấc ngủ sẽ giúp con chóng bình phục.

Rồi ông dìu Vi Da đến giường ngủ, kéo chăn đắp lên cho cậu, rồi khép lá chắn lại. Buồng ngủ sạch sẽ, yên tĩnh, tiếng động bên ngoài không lọt vào được. Ông ra ngoài và bảo Kiều Uy:

- Vi Da chưa sẵn sàng làm lại cuộc đời đâu. Chúng ta cần phải nhẫn nại.

Sức khỏe của Vi Da bình phục trước tiên, cha Kiều Uy nhìn cậu bé, ông biết rằng chẳng bao lâu nữa trí óc và tâm hồn cậu sẽ bình phục theo. "Sự sống mạnh hơn sự chết", ông vẫn thường bảo với Kiều Uy như thế.

Nhưng Vi Da vẫn còn mệt mỏi chán chường, cậu bé biếng nhác suy nghĩ về bất cứ chuyện gì, cậu chỉ muốn đắm chìm trong giấc ngủ triền miên quên lãng. Trừ khi đói lắm cậu mới thức dậy ăn qua loa, rồi lại ngủ. Mỗi lần thấy vậy, mẹ Kiều Uy dìu cậu vào phòng, và lần nào cũng như lần nào, cứ ngả người xuống giường là cậu bé thiếp đi. Mẹ Kiều Uy đắp chăn bông cho cậu rồi rón rén đi ra.

Suốt những ngày ấy, Kiều Uy không hề ham thích đùa giỡn. Cậu bé chăm chỉ giúp cha làm việc ngoài đồng. Hai cha con cũng biếng nói và không hề nhìn ra biển. Họ chỉ chăm chú nhìn đất đen màu mỡ ở dưới chân, dường như mặt đất đã khiến họ vui thích đủ rồi.

Vào một buổi chiều rực nắng quái, Kiều Uy leo lên ngọn đồi phía sau trại để nhìn những miệng núi lửa chơ vơ. Những áng mây đen và thấp đã đi xa tự bao giờ, bầu trời trong suốt một màu xanh. Kiều Uy cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui vì biết rằng núi lửa không còn giận dữ nữa và cậu bé xuống đồi về nhà. Cha cậu đang ngồi ở bực cửa hút thuốc. Cậu nghe tiếng nước chảy róc rách sau nhà, có lẽ mẹ đang tắm cho Sen Ái. Cậu lên tiếng hỏi cha:

- Vi Da đã ngủ rồi hả ba?
 
- Ừ, ngủ được là tốt. Giấc ngủ sẽ bồi bổ cậu ấy nhanh chóng, nhờ đó khi thức dậy có lẽ cậu ấy sẽ suy nghĩ được.

- Nhưng anh ấy có nên nhớ lại những kỷ niệm buồn không hả ba?

- Nên lắm chứ con. Chỉ khi nào cậu ấy nhớ lại cha mẹ, cậu ấy mới cảm thấy hạnh phúc trở lại.

Hai cha con ngồi cạnh nhau, đăm chiêu. Kiều Uy vẫn chưa thỏa mãn, cậu bé hỏi thêm:

- Ba à, có phải chúng ta là những người bất hạnh nên mới sống ở Nhật Bổn, hả ba?

- Sao con lại hỏi thế?

- Bởi vì ở Nhật Bổn hiểm nguy luôn luôn rình rập chúng ta, hết núi lửa sau lưng lại đến đại dương trước mặt. Khi cả hai hợp lại để làm hại con người thì chúng ta vô phương chống đỡ. Bao giờ chúng ta cũng có nhiều người thiệt mạng oan uổng.

- Phải sống giữa lòng hiểm nguy chúng ta mới biết sự sống đáng quý là chừng nào, con ạ.

- Nhưng chẳng may chúng ta bị thiệt mạng thì sao?

- Sống kề cận với cái chết làm chúng ta thêm can trường. Đó là lý do tại sao chúng ta không bao giờ sợ chết. Chúng ta quá quen với cái chết nên không còn sợ nó nữa. Chết chậm hay sớm hơn một chút, điều ấy không có gì đáng quan trọng, vấn đề là làm sao sống cho can trường, yêu mến cuộc sống để thấy rằng cỏ cây hoa lá thật đẹp, công việc rất vui thú và cung cấp thực phẩm bổ dưỡng cho chúng ta. Trong nhân giới đó, phải nói chúng ta là một dân tộc được chúc phúc mới đúng. Chúng ta yêu mến sự sống vì chúng ta sống kề cận cái chết. Chúng ta không sợ chết vì chúng ta hiểu rằng sống và chết đều cần lẫn nhau.

- Thế ba nói chết là gì?

Cha Kiều Uy bình thản trả lời, gương mặt không lộ một chút ưu phiền:

- Chết chẳng qua là một cánh cổng lớn con ạ.

- Nhưng cánh cổng lớn ấy ở đâu?

Cha cậu bé mỉm cười:

- Con còn nhớ lúc con sinh ra không?

Cậu bé lắc đầu:

- Con không biết, lúc ấy con còn nhỏ quá.

Cha Kiều Uy cười:

- Nhưng ba lại nhớ rõ lắm, lúc ấy sinh con ra thật vất vả. Con la hét đủ thứ.

- Thế con không thích sinh ra đời hả ba?

Cậu bé lấy làm thích thú vì có bao giờ cậu nghe nói về chuyện sinh đẻ đâu.

- Ừ, con đâu muốn sinh ra. Con chỉ muốn ở mãi trong lòng mẹ. Nhưng khi giờ đã điểm, cánh cổng cuộc đời mở rộng chào đón con dù con chấp nhận hay từ chối.

- Con có biết cánh cổng cuộc đời là gì đâu?

- Vì con không biết nên con mới sợ hãi. Con cứ nghĩ lại xem có ngớ ngẩn không, ba mẹ đang nôn nao chờ đón con chào đời từng phút và luôn luôn cưng chiều con hết sức. Con có thấy hạnh phúc không nào?

- Có chứ, con cảm thấy hạnh phúc lắm cho tới khi sóng thần tới. Nhưng bây giờ thì con lại sợ chết bất tử vì sóng thần lắm.

- Con sợ hãi là vì không không biết chết là gì? Nhưng rồi một ngày kia con sẽ tự hỏi tại sao con sợ chết cũng như hôm nay con thắc mắc tại sao con lại sinh ra đời.

Cha con mải hàn huyên, quên bẵng đi hoàng hôn đang xuống nhanh. Mặt trời đã lăn xuống sau dãy núi phía xa và bóng tối lan tràn khắp nơi. Họ chợt thấy một ánh đèn mập mờ, cháy lung linh trong gió biểm, đang tiến dần về phía trại. Ánh đèn thoáng trông như đôm đốm, nhưng không phải.

- Ai thế ba nhỉ?

- Có lẽ người nào đến thăm đây, nhưng ba không biết là ai.

Vài phút sau họ nhận ra người khách đang tiến lên là ông lão quí tộc. Ông lão chống gậy, bước đi còn chững chạc lắm, phía trước có người đầy tớ cầm đèn soi lối. Họ nghe giọng ông lão vọng lên trong buổi chiều đã tắt nắng.

- Đây có phải là nhà của bác nông phu Uyên Sĩ Đại Gia không?

- Thưa vâng. Cha con bác ấy đang ngồi chơi trước nhà ạ.

Nghe nói vậy, cha con Kiều Uy vội đứng bật dậy. Cha cậu niềm nở mời:

- Kính chào ngài. Thưa ngài có sai bảo điều chi để chúng tôi được hầu ngài.

Ông lão nhập đề ngay:

- Có đứa bé trai tên Vi Da ở đây không?

- Thưa ngài có. Cậu ấy đang ngủ trong nhà ạ.

- Lão muốn gặp cậu một lát.

Ông lão nói giọng nghiêm nghị. Giọng của ông có mãnh lực khiến mọi người phải tuân theo. Nhưng cha Kiều Uy mỉm cười đáp:

- Thưa ngài, cậu ấy đang ngủ, tôi không dám làm phiền cậu ấy. Hiện giờ cậu ấy đang đau khổ vì mất cả gia đình. Cậu ấy cần nghỉ để lấy lại sức.

Ông lão dịu giọng:

- Lão không thức cậu ấy dậy đâu, lão chỉ muốn nhìn mặt cậu ấy một lát thôi.

Cha Kiều Uy hướng dẫn ông lão vào phòng Vi Da ngủ. Tất cả mọi người đều rón rén bước vào. người đầy tớ hạ thấp ngọn đèn xuống, cẩn thận lấy tay che lại để khỏi chói mắt cậu bé. Ông lão ngắm nghía cậu bé đang say sưa trong giấc điệp từ đầu đến chân. Phải nhận rằng Vi Da rất đẹp trai tuy gương mặt còn đầy vẻ xanh xao và mệt mỏi. Thân hình cậu bé khá to lớn so với những trẻ em cùng tuổi, mạnh khỏe và khuôn mặt đẹp như thiên thần, chói ngời nét thông minh.

Ông lão mở mắt lớn nhìn cậu bé như muốn ghi nhận cho rõ một lần cuối rồi ra hiệu cho người đầy tớ cầm đèn quay trở ra. Đến sân ngoài, ông nói với cha Kiều Uy:

- Lão vẫn thường giúp đỡ những cô nhi quả phụ mỗi khi trong làng gặp sóng thần. Đã ba lần sóng thần xảy đến lão đều ra sức giúp đỡ cho họ. Lão có nghe nói nhiều về Vi Da và lão muốn giúp cậu ấy đặc biệt hơn. Nếu cậu ấy bằng lòng, lão nhận cậu ấy làm nghĩa tử.

Kiều Uy dẫy nẩy kêu lên:

- Nhưng Vi Da đã ở lại gia đình cháu rồi.

Cha cậu mắng át đi:

- Kiều Uy, con không được nói thế. Chúng ta chỉ là những người nghèo hèn. Nếu ngài muốn, chúng ta phải để cho ngài săn sóc Vi Da.

- Đúng vậy. Lão sẽ nuôi dưỡng và giáo dục Vi Da đàng hoàng. lão sẽ may sắm cho Vi Da và cho Vi Da đi học ở một trường lớn. Biết đâu nhờ đó sau này cậu ấy sẽ trở nên một vĩ nhân làm rạng danh cho tỉnh nhà và cả xứ sở chúng ta nữa.

- Nhưng nếu Vi Da vào sống trong lâu đài, làm sao chúng cháu có thể chơi chung với nhau nữa.
 
                                        ______________________________________
Xem tiếp PHẦN IV  

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 190, ra ngày 1-12-1972)

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2025

Cơn Sóng Định Mệnh (II)


Dùng cơm xong, cha Kiều Uy ung dung nhấm nháp một ly rượu vang nhỏ, mẹ cậu thu dọn bát đĩa xuống bếp, lúc đó Kiều Uy quay về phía cha và hỏi:

- Ba à, tại sao Vi Da lại sợ biển?

- Bởi vì biển cả mênh mông, không ai biết nó bắt đầu ở đâu và chấm dứt ở đâu.

- Nhưng tại sao ba của Vi Da cũng sợ biển nữa?

- Chúng ta làm sao hiểu nổi biển, hở con?

- Con sung sướng vì gia đình mình sống trên đất liền, chứ không gần biển. Nghề nông không có gì đáng sợ cả ba nhỉ?

- Người ta sợ cả đất nữa, con à. Con còn nhớ cái núi lửa cha con mình đến thăm hồi mùa thu năm ngoái không?

Kiều Uy nhắm mắt lại. Cứ mỗi độ thu về, khi mùa màng đã gặt hái xong xuôi, gia đình Kiều Uy lại đi nghỉ mát. Họ thường cuốc bộ, ngay cả cô bé Sen Ái cũng thế, lưng mang thức ăn, tay chống gậy leo núi, họ quên tất cả mọi công việc thường nhật để dạo chơi một danh lam thắng cảnh nào đó. Nông trại đã có một ông láng giếng tốt bụng trông nom hộ. Vào mùa thu năm ngoái, gia đình Kiều Uy đến thăm một hỏa diệm sơn vĩ đại cách xa 20 dặm. Kiều Uy chưa bao giờ nhìn tận mắt một núi lửa cả, cậu bé chỉ nghe người ta bàn tán về chúng mà thôi. Đôi khi vào những ngày đẹp trời, nếu cậu bé chịu khó leo lên ngọn đồi đằng sau nhà, cậu có thể nhìn thấy ở cuối chân trời một đám mây xám tỏa ra như hình nan quạt. Cha cậu bảo đó là khói bốc lên từ miệng núi lửa. Một đôi khi mặt đất chuyển động ngay cả phía dưới nông trại. Đó cũng tại vì núi lửa.

Kiều Uy bắt đầu nhớ lại những gì đã nhìn thấy trong buổi dạo chơi hồi cuối thu năm ngoái. Chiếc miệng núi lửa há hốc, loang lở, những cuộn khói có sắc vàng và đen nồng nặc mùi diêm sinh xông lên. Cậu tò mò nhìn xuống lòng núi lửa nhưng rồi vội quay đi. Chẳng có gì đẹp đẽ, thích thú cả. Dưới sâu có một dòng nước đục và đặc quánh thoát ra từ một khe nhỏ. Cậu bé đã muốn quay về nhà ngay lập tức. Bây giờ nghĩ lại, nhất là ban đêm những lúc cuộn mình trong chăn ấm cậu bé cảm thấy sung sướng vì sống xa khỏi núi lửa, và ít ra là có đến ba ngọn núi ngăn cách nhà cậu với chiếc miệng há hốc ghê tởm ấy.

Cậu bé mở mắt ra và nhìn cha:

- Không lẽ khi nào chúng ta cũng phải sợ hãi một điều gì sao?

Cha cậu nhìn lại cậu. Ông có thân hình dẻo dai và những bắp thịt nổi lên cuồn cuộn vì làm việc nhiều. Bàn tay ông chai sạn, đầy những cục u nhưng luôn luôn sạch sẽ. Ông luôn luôn đi chân không trừ khi có việc phải mang giày rơm. Nhưng hễ vào nhà là ông cởi ra ngay. Trong gia đình không ai đi giày trong nhà cả.

Vì thế nền nhà luôn sạch sẽ và bóng như gương.

- Chúng ta phải học cách sống chung với hiểm nguy - ông nói.

- Có phải ba muốn nói biển và núi lửa sẽ không làm hại chúng ta nếu chúng ta không sợ hãi chúng?

- Không phải thế. Biển và núi lửa luôn luôn ở bên cạnh chúng ta. Một ngày nào đó, biển sẽ nổi phong ba và núi lửa sẽ chảy tràn phún thạch, chúng ta phải chấp nhận điều đó không chút sợ hãi. Chúng ta phải luôn tự nhủ: một ngày kia ba hay con sẽ chết, chết vì biển hay vì núi lửa, chết sớm hay chậm hơn một chút, điều đó chẳng có gì quan hệ cả.

Kiều Uy lắc đầu:

- Con không thích nghĩ những chuyện như thế.

- Đúng vậy, con không nên nghĩ những chuyện như thế làm gì để khỏi sợ hãi. Lúc con sợ hãi là lúc con nghĩ đến điều đó. Con hãy thụ hưởng cuộc sống và đừng sợ hãi sự chết. Đó là lối sống của một người Nhật chân chính.

Cuộc sống có rất nhiều điều đáng thụ hưởng. Ngày nào Kiều Uy cũng có những giây phút vui thú. Mùa Đông, cậu bé đi học ở một ngôi trường trong làng đánh cá. Cậu và Vi Da ngồi chung một ghế. Chúng học đọc, học viết, học làm toán và học những kiến thức mà tất cả những đứa trẻ cùng lứa tuổi được học ở trường. Nhưng vào mùa hè cậu phải làm lụng vất vả để giúp cha mẹ. Ngay cả Sen Ái và mẹ cậu cũng giúp cha cấy mạ trong thửa ruộng ngập nước. Và khi lúa chín đầy đồng, cả gia đình cũng phụ một tay giúp cha cậu gặt và đập lúa. Vào những hôm ngày mùa như thế, Kiều Uy không được rảnh rỗi để xuống đồi chơi đùa với Vi Da. Và suốt ngày, cậu bé mệt đừ, có khi ngủ thiếp đi cả trong những bữa ăn.

Nhưng cũng có những ngày cậu bé được tha hồ chơi giỡn. Mỗi khi được tin có đàn cá di chuyển qua eo biển, các ngư phủ tức tốc chèo thuyền ra khơi theo những con nước chính. Ngay từ sáng sớm khi ánh trăng còn le lói trên bầu trời, cha con Vi Da đã vội trương buồm ra khơi cho kịp bủa lưới lúc bình minh. Nếu gặp được vận may thì mẻ lưới trĩu nặng những cá đến nỗi họ phải cố gắng hết sức mới kéo được lưới lên thuyền. Và chẳng mấy chốc mà khoang thuyền đầy ắp cá. Những con cá có vẩy trắng bạc óng ánh dãy dụa lách tách nghe rất vui tai.

Đôi khi vào những lúc không phải mùa gieo mạ hay mùa gặt. Kiều Uy đi biển với cha con Vi Da. Cậu bé cảm thấy thích thú được thức dậy vào giữa khuya và mặc áo bông có nịt thắt ngang lưng. Vào mùa hè gió biển trở nên mát dịu vào lúc rạng đông. Nhưng dù cậu có dậy sớm mấy đi nữa, bao giờ mẹ cậu cũng thức giấc trước, nấu cho cậu một tô cháo nóng, một ly sữa đậu nành và một ly trà nóng trước khi cậu lên đường. Và hành trang mang theo gồm có cơm nắm, cá kho khô và dưa cải muối đựng trong chiếc hộp gỗ để ăn trưa.

Thế rồi cậu bé ba chân bốn cẳng chạy thẳng đến chỗ ghe đậu. Những chiếc ghe đang nhấp nhô theo nhịp sóng tựa như nhún nhảy một điệu slow chờ đón. Cha con Vi Da đã có mặt ở đó tự bao giờ. Vài phút sau con thuyền quay đầu hướng ra phía biển khơi mênh mông. Cánh buồm no gió lướt như bay trên sóng. Kiều Uy nằm dài trên khoang thuyền, hai tay gối đầu, mắt nhìn vơ vẩn trời cao mà nghe lòng rộn rã niềm vui. Bờ biển khuất dần sau làn sương mờ đục và đại dương bỗng trở nên lồng lộng. Con thuyền vẫn tiếp tục lênh đênh trên nước triều dâng. Chẳng bao lâu họ bắt gặp đoàn thuyền và cùng nhau đuổi theo đàn cá đang di chuyển dưới biển sâu. Cá cũng như chim vậy, bơi lội từng đàn có khi giăng kín cả một góc trời.

Thích thú nhất là những lúc kéo lưới lên, lưới đầy cá nặng trĩu, và những lúc ấy Kiều Uy cảm thấy đời sống của Vi Da dễ chịu hơn nó nhiều. Xem ra mùa cá ưu đãi con người nhiều hơn mùa gặt. Kiều Uy tâm sự với Vi Da:

- Tớ ước gì ba tớ cũng làm nghề đánh cá. Gặt hái nhọc nhằn quá, trong khi cậu thấy tớ có thể đánh cá được huống hồ gì ba tớ.

Vi Da lắc đầu:

- Cậu cứ nói thế chứ gặp lúc bão táp, cậu lại mong ước được làm nghề nông cho xem.

Vi Da mỉm cười nói tiếp:

- Hỏi thật cậu nhé, cậu nghĩ sao nếu có cá mà không có cơm? Cậu có thể sống chỉ toàn ăn cá không?

Cha Vi Da góp ý:

- Chúng ta cần cả nông gia lẫn ngư phủ, các con ạ.

Vào những ngày đẹp trời, gió dịu và sóng im, người ta khó có thể tin được biển phẳng lặng và xanh ngắt thế kia lại tiềm ẩn một hiểm họa giết người tàn khốc. Tuy thế, Kiều Uy vẫn không thể nào quên được dòng nước lạnh lẽo kinh hồn đang im lìm trôi chảy dưới khối nước ấm áp bên trên. Và vào những lúc sóng gió, cậu bé lại cảm thấy mừng rỡ vì cha cậu là nông dân sống trên mặt đất. Dù sao đất vẫn là nơi nương tựa vững chắc hơn biển cả.

Thật vậy, một hôm trận động đất xảy ra và gây nên sóng thần. Ở đáy biển, trong lòng đất tựa hồ như có một biển lửa sôi sùng sục. Biển cả mênh mông và xanh ngắt bất lực không thể nào đàn áp nổi sức nóng ghê gớm ấy. Cả một khối nước vĩ đại chỉ có thể xoa dịu ngọn lửa trong một khoảng thời gian nào đó thôi, nhưng đến một lúc hơi nóng tích tụ từ bấy lâu nay trở nên mạnh đủ, nổ tung lên cao và phun thành núi lửa. Ngày ấy, Kiều Uy đang giúp cha trồng dưa leo ở sườn núi, đột nhiên cậu thấy bầu trời u ám lạ thường:

- Coi kìa, ba ơi. Núi lửa!

Cha cậu ngừng tay và ngẩng lên nhìn trời, sắc mặt đầy vẻ lo âu:

- Trời trông ghê quá, chắc đêm nay ba không ngủ được.

Những chữ cuối ông lẩm bẩm tựa như chỉ nói cho mình ông nghe. Suốt đêm đó, cha Kiều Uy thức canh chừng giấc ngủ cho cả gia đình. Buổi chiều, lúc chạng vạng tối, bầu trời đỏ rực lên như máu và mặt đất rung chuyển ầm ầm dưới nền nhà. Phía dưới chân đồi, trong làng đánh cá thấp thoáng vài ngọn đèn dầu hiu hắt, chắc cũng có những người thức trắng như bác. Thế hệ nào cũng có những người cha ngồi thâu đêm để canh chừng biển, canh chừng đất.

Trời sáng dần, buổi bình minh hôm đó nóng lạ lùng, nóng như thiêu như đốt. Bầu trời rực lửa và âm u. Trang trại mịt mù những bụi tro bay đến từ miệng núi lửa. Ngay khi vừa thức dậy, Kiều Uy đã có một cảm giác khác lạ. Cậu bước chân xuống nền nhà và cảm thấy mặt đất nóng hực như than hồng. Trong nhà mẹ cậu đã lo hạ tất cả mọi đồ vật treo mắc trên tường xuống, để phòng chúng khỏi rơi bể. Có một ít chén đĩa loại tốt bà cũng đem gói riêng lại rồi cất vào chiếc giỏ có lót rơm cẩn thận.

Khi cả nhà đang dùng cơm sáng, Kiều Uy hỏi cha:

- Có phải động đất không hở ba?

Ba cậu chép miệng:

- Ba không biết rõ, con ạ. Đất và Biển đang hợp lực chống lại lửa trong lòng đất.

Buổi sáng mùa hè ấy, không có con thuyền nào ra khơi cả. Trời không một ngọn gió, biển lặng yên như một tấm gương lớn và mặt nước loang vết dầu. Biển trở nên tím ngắt, đẹp rùng rợn. Kiều Uy vừa nhìn ra biển đã sợ run bắn người lên:

- Tại sao biển lại tím ngắt thế hở ba?

- Vì biển phản chiếu bầu trời con ạ. Biển, đất, trời, nếu cả ba cùng hợp lực chống lại con người thì nguy hiểm không sao kể xiết.

- Lúc đó thần thánh đi đâu hết hở ba? Bộ thần thánh không phù hộ chúng ta sao?

Cha Kiều Uy hơi hạ giọng xuống:

- Có những lúc mà thần thánh như thể bỏ rơi con người một mình để thử thách xem con người có tự cứu nổi mình không.

- Nhưng nếu chúng ta không đủ sức tự cứu mình thì sao?

- Bắt buộc phải nổi chứ. Sợ hãi chỉ làm cho chúng ta nhụt chí đi mà thôi, tay run rẩy, chân khuỵu xuống và trí óc bị tê liệt.

Giọng ông có phần nào miễn cưỡng. Ngày đó không ai dám ra khỏi nhà. Cha Kiều Uy ngồi tựa cửa, mắt đăm chiêu nhìn trời và biển, ánh mắt ngập tràn vẻ xa vắng và lo âu. Kiều Uy ngồi sát vào mình cha, không biết giờ này Vi Da đang làm gì. Có lẽ Vi Da cũng đang ngồi cạnh cha như cậu. Thời gian lặng lẽ trôi.

Đến trưa, cha cậu chỉ tay xuống đồi bảo:

- Con xem lâu đài của ông quí tộc kìa!

Ở lưng chừng đồi. nơi tọa lạc lâu đài, Kiều Uy thấy một cây sào dài buộc một lá cờ đỏ nổi bật trên nền trời xám xịt.

- Ông lão kêu gọi mọi người nên sẵn sàng chuẩn bị. Ba đã thấy hai lần ngọn cờ đỏ được kéo lên và cả hai lần đều xảy ra trước khi con sinh ra.

- Sẵn sàng để làm gì hở ba?

- Để kịp thời đối phó với mọi bất trắc.

Vào khoảng hai giờ chiều, bầu trời tối sầm lại, không khí trở nên oi bức như thể có cháy rừng, nhưng không có cháy rừng nào hết. Miệng núi lửa đỏ rực lên như ngậm đầy máu. Từ dưới đồi vọng lên từng hồi chuông âm trầm.

- Chuông gì vậy ba, từ trước đến giờ có khi nào con nghe đâu?

- Ba đã nghe tiếng chuông này hai lần trước khi con sinh ra. Đó là tiếng chuông trong lâu đài. Ông lão kêu gọi mọi người lánh nạn tại nhà ông.

- Thế họ có lên không?

- Có, nhưng không phải tất cả. Cha mẹ thúc giục con cái đi lánh nạn nhưng chúng vẫn đòi ở lại. Vợ không muốn xa chồng nửa bước, ngư dân không muốn bỏ ghe thuyền mà đi. Tuy nhiên vẫn có nhiều người quý mạng sống mình hơn.

Rồi chuông lại vọng lên lanh lảnh, cấp bách, như réo gọi dân làng nhanh bước. Một lát sau, một đám người ùn ùn leo lên đồi, phần lớn là trẻ con.

- Con muốn Vi Da lên đây với con. Không biết con vẩy vẩy thắt lưng trắng, Vi Da có thấy không ba?

- Con vẩy vẩy thử xem.

- Ba lại đây với con nghe.

Kiều Uy kéo cha cậu đi lại mé đồi, cởi thắt lưng ra rồi ra sức vẩy.

Đàng xa, Vi Da thấy hai bóng người đang vẩy một mảnh vải trắng nổi bật trên nền trời u ám. Cậu không muốn rời xa cha, nhưng vì nhỏ nhất nhà nên cha mẹ và anh cậu buộc cậu phải tránh lên núi. Cha cậu phân trần:

- Chúng ta nên phân chia ra. Nếu gia đình có mệnh hệ gì còn có con để nối dõi.

Vi Da mếu máo khóc:

- Con không muốn sống một mình.

Ba cậu nghiêm mặt:

- Là người Nhật, bổn phận của con là nghe lời ba. Nào ngoan cho ba vui.

Vi Da ôm mặt khóc nức nở và chạy vụt ra khỏi nhà. Cậu thoáng thấy cha con Kiều Uy đang đứng vẫy trên đỉnh đồi và cậu chợt nảy ý định chạy lên với bạn thay vì vào lâu đài. Thế rồi cậu cắm đầu chạy một mạch lên nông trại. Đối với cha mẹ Kiều Uy, Vi Da thương như là cha mẹ cậu. Cậu không có chị hay em gái nên rất quí mến Sen Ái, trong đầu cậu Sen Ái là cô bé xinh nhất đời.

Cha Kiều Uy chìa tay ra giúp cậu bé leo lên bực đá. Vừa lúc Kiều Uy định lên tiếng chào bạn thì một luồng gió dữ dội từ đại dương ào ào thổi đến. Kiều Uy và Vi Da ôm chặt lấy nhau và nép sát vào cha Kiều Uy.

Kiều Uy la lên:

- Xem kìa, gì vậy ba?

Biển lồng lộn và dâng cao đến chín từng mây.

- Lạy Trời, lạy Phật xin độ trì chúng con.

Kiều Uy nghe cha lâm râm khấn vái. Tiếng chuông lại trỗi lên liên hồi. Nhưng gió thế kia, không biết có ai nghe được tiếng chuông không? Nhà họ lại không có cửa sổ nhìn ra biển, họ có biết chuyện gì sẽ xảy ra không nhỉ?

Dưới lòng biển sâu thăm thẳm, mặt đất cuối cùng đành khuất phục dưới ngọn lửa khủng khiếp. Đất nẻ ra, nước ào ào đổ xuống những khoảng đất đang sôi lên hừng hực. Nước nóng phun vọt lên cao và biến thành sóng thần. Cơn sóng vĩ đại chạy xô vào bờ, phía trên sủi bọt trắng xóa. Càng lúc cơn sóng càng dâng cao, như con thú hung dữ chồm lên, bao nhiêu nanh vuốt chĩa ra tua tủa.

Vi Da gào lên:

- Cháu phải báo cho ba cháu hay.

Nhưng hai tay của cha Kiều Uy như hai gọng kềm nắm chặt lấy người cậu bé.

- Trễ rồi cháu ạ.

Ông buông tiếng thở dài. Lúc này ông không thể để Vi Da chạy đi được. Trong vài giây nữa thôi, cơn sóng sẽ càng phồng lên gấp bội, và tấp nhanh vào bờ. Trong thinh không tiếng gầm thét của sóng xen lẫn tiếng kêu la hãi hùng. Và trước khi Vi Da kịp thét lên lần nữa, cơn cuồng lưu đã đổ ụp xuống nuốt gọn lấy ngôi làng, bọt trắng sủi lên tung tóe. Sóng chạy dạt lên triền núi, đập mạnh vào ghềnh đá, biến ngọn đồi có lâu đài nguy nga thành một cù lao cô quạnh. Những người đang leo nửa chừng đều bị cuốn trôi đi. Bậc đá chỗ ba người đứng cũng bị nước xoáy mạnh tàn bạo. Rồi trong thoáng chốc, con sóng rút lui ra biển, thật nhanh, mang theo nhà cửa, cây cối và đất đá. Hai đứa bé sững sờ nhìn con sóng hoành hành, ùa ra tạt vào nhiều lần cho đến khi lịm yên.

Bãi biển trở nên quạnh hiu. Không một mái nhà, không một mảnh gỗ vụn, không một viên gạch. Hình như đã từ lâu lắm rồi không có dấu chân người đặt lên bãi biển này. Xa xa đại dương vẫn rì rào tiếng sóng.Vi Da khóc thảm thiết rồi ngất lịm đi. Những điều cậu bé vừa chứng kiến tận mắt, như xảy ra trong ác mộng. Cơn ác mộng quá hãi hùng vượt sức chịu đựng của cậu. Còn đâu nữa mái nhà xưa với muôn vàn kỷ niệm yêu dấu, còn đâu nữa gia đình với cha mẹ, anh, những người thân...

Kiều Uy cũng òa lên khóc. Cha cậu lặng yên mặc tình cho cậu khóc. Ông cúi xuống ẵm Vi Da vào nhà. Mẹ Kiều Uy vội chạy từ bếp ra, trải một tấm thảm xuống đất làm chỗ nằm. Cha cậu nhẹ nhàng đặt Vi Da xuống và nói, giọng thì thầm:

- Mình cứ để Vi Da nằm yên như thế. Ngất được, cậu ấy đỡ khổ hơn. Anh sẽ ngồi đây canh chừng.

Mẹ Kiều Uy bùi ngùi nói:

- Để em lấy dầu nóng xoa bóp cho Vi Da.

Kiều Uy vẫn không nói được lời nào. Mắt cậu đẫm lệ, chiếc miệng mếu máo và tiếng khóc như nấc lên từ cuống họng. Cha cậu để yên cho cậu khóc một lúc rồi xoay qua bảo mẹ cậu:

- Em đi nấu cho con một ít cháo gừng, con nó bị cảm lạnh.

Kiều Uy vẫn không hay biết gì, mãi đến khi nghe cha nói, cậu mới cảm thấy người cậu run lên cầm cập và không thể ngưng khóc được.

Lúc ấy Sen Ái vừa bước vào. Cô bé không hay biết gì về sóng thần vì bị mẹ nhốt trong bếp và kéo màn lại. Thoạt trông thấy Vi Da nằm bất động, mặt tái nhợt, cô bé ngây thơ hỏi cha:

- Vi Da chết rồi hả ba?

- Không phải vậy đâu con. Vi Da còn sống mà.

- Thế sao anh ấy không mở mắt ra?

- Lát nữa anh ấy mới mở mắt ra.

- Nhưng nếu anh ấy không chết thì sao anh Kiều Uy lại khóc?

- Sao con lắm mồm thế. - Cha Kiều Uy gắt - Con xuống bếp giúp mẹ đi.

___________________________________
Xem tiếp PHẦN III

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 189, ra ngày 15-11-1972)

Cơn Sóng Định Mệnh (I)

 

 
 LÁ THƯ CỦA PEARL BUCK

Tôi ngồi bên cửa sổ của quán trọ, buông tầm mắt thoải mái nhìn ra bãi biển của hải đảo Kiều Sử xứ Nhật Bổn. Quán trọ nằm trong thành phố Ấu Bang, thành phố nổi tiếng với những suối nước nóng tuyệt đẹp. Ngồi đây tôi có thể nhìn thấy những hình nước xoắn ốc tỏa lên từ lòng đất. Nước nóng đến độ có thể luộc chín trứng và thịt. Phía bên ngoài cửa sổ có hồ tắm rộng rãi đầy ắp nước nóng. Mặt biển xanh rì như Địa Trung Hải. Phía sau tôi, ở xa xa trùng trùng điệp điệp những dãy núi hỏa diệm sơn. Mang tên Ấu Văn. Tôi biết rõ chúng tựa như trong lòng bàn tay tôi. Tôi đã sống nhiều năm ở đó, cạnh những rặng thông xanh vút cao nơi triền núi. Thời ấy nội chiến bùng nổ ở Trung Hoa và lan tràn khắp nơi khiến tôi không thể sống yên ổn. Bây giờ cư ngụ cạnh những miệng núi lửa này, tôi lại cảm thấy bình yên hơn.

Ngay tại hải đảo nhỏ bé này, vào một ngày cuối hạ tôi đã tận mắt chứng kiến những cơn sóng thần khủng khiếp tàn phá. Cả một ngôi làng cổ bị cuốn phăng đi và bãi biền trở nên hoang vu như chưa từng có dấu chân người đặt đến. Khởi đầu, những cuộn sóng nhấp nhô bốc cao lên, tuyệt không một tiếng gió hú hay gầm thét của sóng biển. Cả dải cát trắng tràn ngập một niềm im lặng hãi hùng. Rồi mặt đại dương tựa như được nâng cao đến mây xanh, thình lình gãy gục xuống, vỡ bọt trắng xóa cả bãi biển. Tôi vẫn nghĩ người ta không bao giờ nên dựng một ngôi làng tại một chỗ địa đầu như thế này. Theo bút tích còn ghi chép lại thì trong khoảng 200 năm nay sóng thần đã nổi lên nhiều lần, và cứ sau mỗi lần như thế những người sống sót, ngư dân và gia đình, lại trở về cần cù dựng lại ngôi làng. Làng nằm sâu giữa hai triền núi, xung quanh bao bọc bởi biển cả. Mỗi lần sóng thần xuất hiện thường có những dấu hiệu báo trước. Thoạt tiên có tiếng gầm gừ nho nhỏ, tựa như tiếng rền rĩ hay tiếng đại bác ầm ầm vọng lại từ rất xa và liên tục. Tiếng động đặc biệt ấy xuất hiện vài giờ trước khi cơn sóng tràn đến. Buổi tối, mặt đất lay động và rung chuyển ngay dưới giường ngủ, và buổi sáng thức dậy, giếng nước của làng xây trên bãi biển trở nên đục ngầu những bùn đất. Nếu dân cư ở đó tạm lánh đi nơi khác thì đã chẳng có nguy hiểm nào xảy ra, nhưng họ đã ở lại, luôn luôn kiên trì và trung thành với mặt đất. Ngày nay, người đầu mục trong làng, cũng là người cao niên nhất vẫn tưởng rằng tôi viết về chuyện của ông ta. Cả gia đình ông bị cuốn trôi ra biển khi ông còn bé, và chỉ có một mình ông sống sót. Thật ra tôi đang viết về Vi Da, câu chuyện cũng tương tự như câu chuyện của ông ta. Vi Da chơi rất thân với Kiều Uy, con trai một bác nông phu. Nông trại của Kiều Uy nằm êm đềm trên một ngọn đồi thoai thoải, từ phía trên có thể nhìn thấy ngôi làng chài lưới. Khi cơn sóng thần tràn đến... tôi đã bắt đầu kể vào chuyện rồi đấy nhé!

Cũng như con người, sách vở có lối diễn đạt và khai mở của nó. Trong những năm chiến tranh, tôi đã có dịp nhìn thấy những trẻ em run sợ trước cái chết, ngay cả trẻ em Hoa Kỳ cũng thế. Chúng chưa có ý nghĩ về cái chết, chúng vẫn nghĩ rằng chỉ có những người già cả mới chết. Thế nhưng, chiến tranh đã dạy cho chúng biết rằng trẻ con vẫn có thể chết như thường, dĩ nhiên là phải có cơ hội, như chiến tranh chẳng hạn. Khi tôi trông thấy chúng sợ hãi, tôi liên tưởng ngay tới Vi Da, con trai bác ngư phủ và Kiều Uy, con trai bác nông dân. Một đứa sống kề cận thường xuyên với đại dương và một đứa bầu bạn hàng ngày với triền núi loang lở những miệng hỏa sơn. Và tôi vẫn còn nhớ rõ cách thế chúng đã tự học để trường thành ngay bên cạnh cái chết như thế nào, hệt như chúng ta giờ đây đang vất vả tranh đấu với cái chết, già cũng như trẻ. Tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ giúp cho những trẻ em khác sẽ khỏi sợ hãi cái chết, vì rằng dầu thế nào đi nữa, sự sống luôn luôn mạnh hơn sự chết, sự sống sẽ luôn luôn trôi chảy, luân lưu, không bao giờ ngừng... Tôi đặt tên cho cuốn sách này là "Cơn sóng định mệnh."

Câu chuyện không chỉ viết thành sách mà thôi đâu, tôi có ý định quay nó thành phim, và vì thế hôm nay tôi phải cư ngụ tại quán trọ cạnh bờ biển này. Những nhân vật của tôi không phải là những nhân vật tưởng tượng suông đâu, đó là những nhân vật rất thực và sống động. Những đứa bé tên Vi Da, Kiều Uy hay Sen Ái chính là những trẻ em Nhật Bổn luôn hồn nhiên mà hôm nay tôi đang thấy chúng nô đùa trên những ghe đánh cá thả neo trong bến. Kìa các em có thấy không, từ tòa nhà tráng lệ trên đồi cao, ông lão quí tộc đang từ từ đi xuống, ông muốn cảnh cáo bọn trẻ về hiểm họa sóng thần. Tất cả hoạt cảnh này sẽ được thâu hình thành phim cũng như đã được ghi chép thành chuyện.

Bọn trẻ có tin lời lão không? Làm sao chúng có thể tin nổi? Trời xanh thế kia, biển lặng thế kia, nước ấm thế kia. Chúng còn trẻ và dồi dào sinh lực, chúng không thể nào tin nổi điều gì khác với giây phút hiện tại. Còn sau đó, là chuyện khác...

Tôi ngừng ở đây nhé, tôi không muốn kể tiếp nữa, tôi muốn để các em tự đọc lấy, để các em thấy rằng sự sống luôn mạnh hơn sự chết và chúng ta không còn gì phải hãi sợ cái chết cả.

PEARL BUCK      .


Kiều Uy sinh ra và lớn lên trong một trang trại nằm trên một ngọn đồi thấp có những thửa ruộng lớn và bằng phẳng đào sâu vào hai bên sườn đồi. Từ dưới nhìn lên giống như những thang cấp đều đặn dẫn lên đến đỉnh cao. Trải qua bao thế kỷ, các tổ tiên của Kiều Uy đã kế tiếp nhau kiến trúc những bức tường đá để gìn giữ các thửa ruộng của họ.

Ngôi nhà của Kiều Uy nằm chót vót trên đỉnh cao. Đôi khi Kiều Uy cảm thấy mệt mỏi vì phải leo lên cả một sườn núi để về nhà, nhất là sau khi làm việc nặng ở thửa ruộng dưới chân đồi và bụng đói cồn cào. Nhưng khi đã dùng cơm xong, cậu bé lại cảm thấy thích thú sống trên đỉnh đồi này vì có thể đứng ở một góc kín nào đó nhìn xuống đại dương mênh mông phẳng lì một màu xanh huyền ảo.

Núi ở đây rất dốc. Biển ở đây rất sâu. Dưới chân núi chạy dài một dải cát trắng hình bán nguyệt. Ở đó có một làng chài lưới sinh sống và cũng là nơi cha của Kiều Uy thường xuống bán rau trái, lúa gạo và mua cá về. Từ cửa sổ, Kiều Uy có thể ngắm nhìn những túp lều tranh của xóm chài chia thành hai dãy đối diện không đều nhau dọc theo con đường nhỏ trải sỏi trắng. Dãy nhà kế cận với biển không có cửa sổ hướng về phía đó. Kiều Uy vốn thích nhìn sóng nô đùa trên cát nên cậu bé vẫn thắc mắc tại sao dân làng lại không trổ cửa sổ ra phía bãi biển. Cho đến một hôm cậu bé làm quen với Vi Da, con trai một bác ngư phủ.

Căn nhà của Vi Da ở cuối dãy nhà kế cận biển nên cũng không có cửa sổ trông ra đại dương.

Kiều Uy hỏi:

- Này Vi Da, biển đẹp thế kia, tại sao nhà cậu lại không có cửa sổ trông ra biển?

Vi Da ngắt lời bạn:

- Biển là kẻ thù không đội trời chung của chúng tôi. Chuyện đó dễ hiểu quá mà.

Kiều Uy vẫn không hài lòng với lối trả lời đó. Những ngày trời nắng chang chang, xong công việc là lập tức Kiều Uy phóng đến nhà Vi Da. Hai đứa vất hết áo quần ở nhà, chạy một mạch ra biển và nhảy ùm xuống nước trong vắt. Chúng bơi tít ra xa đến một cù lao, Kiều Uy vẫn gọi đùa cù lao ấy là của riêng chúng. Thật ra chúng thuộc về ông lão quí tộc mà chúng thường nghe nói đến chứ chưa bao giờ gặp mặt, ngoại trừ vài lần thấy thấp thoáng ở xa. Năm thì mười họa, vào những chiều có gió mát, ông lão đứng tựa cổng nhìn ra biển. Lúc đó chúng thấy ông lão chống gậy trúc, chòm râu bạc bay phất phơ trong gió. Ông lão sống cô tịch trong tòa lâu đài có hàng rào tre cao vút xung quanh. Tòa lâu đài tọa lạc trên một đỉnh đồi nhỏ phía ngoài làng. Chưa bao giờ Kiều Uy và Vi Da được hân hạnh đặt chân vào bên trong cánh cổng ấy. Nhưng đôi khi cổng mở, chúng cũng nhìn trộm được ngôi vườn tuyệt đẹp có lớp rêu xanh mượt như nhung, có những cây thông lớn rợp bóng với những tàn lọng vô cùng vững chắc. Mỗi ngày gã làm vườn đều dùng chổi tre quét sạch lớp rêu cho đến khi chúng xanh mướt và êm như một tấm thảm. Ông lão quí tộc thường hay bách bộ dưới những hàng thông, mình mặc một chiếc áo lam mỏng, hai tay để sau lưng và chiếc đầu bạc phơ hơi cúi xuống. Khuôn mặt ông lão nhăn nheo và đầy vẻ nhân từ. Nhưng chưa bao giờ ông lão nhìn thấy chúng cả.

Khi chúng bơi đến cù lao và bước lên bãi cát mịn, Kiều Uy cảm thấy hơi lo lo:

- Này Vi Da, chúng mình chưa xin phép ông lão mà ra đây chơi. Không biết ông lão có phiền trách gì không?

Vi Da vội trấn an bạn:

- Cậu đừng sợ. Ông lão có dùng cù lao này làm gì đâu. Với lại ở đây chỉ có mấy con nai vàng ngơ ngác mà thôi.

Quả thật, cù lao có rất nhiều nai. Chúng không tỏ vẻ hãi sợ gì cả vì chẳng có ai làm hại chúng. Khi bầy nai trông thấy hai cậu bé, chúng chạy đến rúc mũi vào lòng bàn tay hai cậu để kiếm ăn. Đôi khi, Kiều Uy mang ở lưng quần áo một chiếc hộp đựng bánh ngọt để cho mấy chú nai. Nhưng ít khi cậu bé có tiền để mua bánh lắm. Cho nên cậu thường bẻ những đọt sậy non đem đến cho nai. Bầy nai khoái thứ này vô cùng, mỗi khi ăn xong chúng thường cọ đầu vào tay cậu bé như để cám ơn.

Kiều Uy ao ước một đêm nào đó được ngủ lại ở cù lao, nhưng không bao giờ Vi da đồng ý. Nhiều khi ở nán lại buổi chiều, cậu bé cũng cứ thấp thỏm nhìn ra biển.

Kiều Uy lấy làm lạ hỏi:

- Cậu kiếm gì vậy?

- Tớ xem thử biển có nổi giận hay không.

Kiều Uy phì cười:

- Đùa vừa thôi chứ. Biển mà nổi giận cái gì?

Mặt Vi Da trầm lại, giọng nói của cậu có vẻ nghiêm chỉnh:

- Thật mà. Ba tớ nói vị thần biển thường ngủ trong một chiếc giường sắt. Thỉnh thoảng ông ta lại trở mình, nhỏm đầu lên và vươn vai làm cho sóng biển nổi lên ầm ầm. Nhiều khi ông ta lại đứng bật dậy rồi gầm lên làm mặt đất ở dưới biển chuyển động từng cơn dữ dội. Lúc đó thì thật sự tớ chẳng ham ở lại cù lao này chút nào.

Kiều Uy ngạc nhiên hỏi:

- Nhưng mà chúng mình có làm gì để cho ông ta giận đâu?

Giọng Vi Da vẫn đầy vẻ nghiêm nghị:

- Ai mà biết được tại sao ông ấy lại giận.

Nhưng may mắn hôm đó mặt biển đã không nổi giận. Ánh mặt trời lấp lánh trong dòng nước trong veo và hai đứa bé tha hồ tung tăng bơi giỡn. Ở phía dưới chúng, biển sâu thăm thẳm tưởng như vô tận. Không ai biết nước sâu đến bao nhiêu cả. Có hôm các ngư phủ dùng dây thừng buộc tảng đá nặng rồi thả xuống biển, họ thả mãi mà hòn đá vẫn không chạm đến đáy. Nước sâu thật sâu, hơn nữa mặt đất tiếp giáp với biển lại dựng đứng khiến cho đáy biển càng sâu hơn. Khi Kiều Uy lặn một hơi xuống thật sâu, chân cậu bỗng chạm một dòng nước lạnh lẽo ghê hồn, cậu bé vội vã trồi lên mặt nước có nắng ấm. Nghĩ lại Kiều Uy vẫn còn thấy rùng mình và chợt hiểu vì sao Vi Da lại sợ biển cả đến thế.

Cậu bé lội lên bờ rồi lại nhảy ùm xuống. Khoái thật. Cậu bé lại rủ Vi Da đi tìm thứ sỏi màu xanh màu lục, thứ màu đỏ màu vàng. Mỗi đứa kè kè bên lưng một cái oi đựng sỏi. Mẹ của Vi Da muốn làm một lối đi trải sỏi trong vườn và không đâu có những hòn sỏi sáng như ở cù lao "Nai vàng ngơ ngác" này cả.

Khi chúng chơi chán chê ở bãi biển, chúng lặn lội vào rừng thông phía sau thám hiểm những hang động. Có một cái hang chúng thích nhất, lần nào đến đây chúng cũng đến thăm cả. Chúng không dám vào sâu, vì đáy hang chìm ngập dưới biển. Chúng biết rõ vậy vì ở phía cuối hang bên kia chúng thấy nước biển tràn vào như một hồ tắm vĩ đại và có thủy triều lên xuống. Nước trong hang lấp lánh lân quang như thể có muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng phía dưới. Một lần chúng bắt được một con cá nắm chết nơi hốc đá. Trong hang tối thân con cá sáng rực trong tay chúng, nhưng khi đem ra ánh sáng, những chất lân tinh biến mất và thân con cá trở nên xam xám. Thế mà khi đem trở vào trong hang, con cá lại lấp lánh sáng rực.

Nhưng dù cho thời tiết có tốt mấy đi chăng nữa, Vi Da vẫn cứ thấp thỏm trông chừng mặt trời. Khi cậu bé chạy ra bãi biển và thấy nước rút dần về hướng Tây, cậu bắt tay lên miệng gọi Kiều Uy liên hồi:

- Kiều Uy ơi, chúng ta phải về gấp mới được.

Cả hai vội nhảy ùm xuống mặt nước đỏ rực ánh hoàng hôn. Buổi chiều biển trở nên ấm áp và dịu dàng. Chẳng mấy chốc chúng bơi qua eo biển và trông thấy cha của Vi Da đang đứng đợi chúng. Hình như ông đứng đấy đã khá lâu rồi. Ông lấy tay che mắt cho khỏi chói và nhìn ra phía biển. Khi ông thấy hai chấm đen bồng bềnh trên sóng, ông gọi lớn và lội ra đón chúng. Ông đưa tay cho chúng bám vào và kéo chúng ra khỏi những ngọn sóng cao đã vỡ tung thành bọt.

Ông nghiêm mặt với Vi Da, ánh mắt vẫn còn phảng phất vẻ lo âu:

- Này Vi Da, từ trước đến giờ có khi nào con về trễ thế này đâu?

Vi Da cúi mặt đáp nhỏ:

- Tại con mải chơi trong hang.

Cha Vi Da nhấc bổng cậu bé lên và căn dặn:

- Lần sau con không được về trễ như thế nữa nhé. Ba không bằng lòng đâu.

Kiều Uy ngạc nhiên nhìn ông và nhận thấy ngay cả bác ngư phủ vạm vỡ này cũng tỏ ra hãi sợ thần biển nổi cơn thịnh nộ.

Cậu bé cúi đầu chúc cha con Vi Da một đêm ngủ ngon rồi vội vã trở về nhà. Về đến cổng, cậu bé đã thấy mẹ cậu dọn sẵn thức ăn trên bàn, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt: cơm gạo lứt nóng suýt soa, canh miến gà, cá nục kho mặn.

Cả nhà không ai lo lắng về Kiều Uy cả. Cha cậu đang tắm ở nhà sau. Tiếng gáo dừa va chạm vào chum và tiếng nước chảy xối xả nghe mát rượi. Cô em gái Sen Ái đang lúi húi tìm đũa ăn cơm.

Vài phút sau, cả nhà quây quần xung quanh mâm cơm tỏa khói nghi ngút được đặt trên một chiếc chiếu lớn sạch sẽ. Mẹ Kiều Uy đơm cơm cho cả nhà. Không ai trao đổi với nhau một chuyện gì, đó là phép lịch sự, mọi người chỉ nên nói chuyện khi đã no đủ.

______________________________________________
Xem tiếp PHẦN II  

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 188, ra ngày 1-11-1972)

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>