Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2018

Hy Vọng Của Loài Người


Vào thời sơ khai của quả đất có hai anh em nhà kia rất thông minh: anh tên là Prometheus và người em tên Epimetheus.

Prometheus là một người tốt, chính ông ta dạy loài người những văn minh đầu tiên. Ông mang lửa từ mặt trời xuống cho loài người, ông dạy cách xây nhà, chăn cừu, nuôi gia súc, trồng ngũ cốc và còn dạy nhiều thứ khác hữu dụng cho cuộc sống.

Bây giờ Zeus (vua của các thần) nghe được tin Prometheus dạy cho loài người nhiều điều hữu ích thế, ông ta vô cùng căm giận, ông ta nghĩ: bọn phàm nhân không đáng được hưởng những điều đó.

Lập tức, ông ta lập kế làm cho loài người khổ sở vì họ đã dám khôn ngoan vất vả ông ta mới vừa ý. Zeus cho đòi Vulcan đến Vulcan là thợ rèn của ông ta và ra lệnh Vulcan phải lấy đất sét làm thành một pho tượng đàn bà, một tượng đàn bà đẹp hơn bất cứ đàn bà đẹp nào trên mặt đất từ trước đến nay.

Vulcan vâng lời chủ tìm đất sét trắng về làm. Thời gian sau đó không lâu, hắn đem nộp cho chủ một kiệt tác: không những trông giống như người mà còn đẹp y như lòng mong muốn của vị thần hiểm ác kia. Zeus rất mực hài lòng, ban thưởng cho Vulcan xứng đáng và nhận pho tượng ấy.

Một hôm Zeus làm một bữa tiệc linh đình, mời đông đủ bạn bè đến dự. Sau khi thực khách no say, chủ nhân bèn gọi Vulcan mang tác phẩm của hắn hoàn thành vào trình diện. Zeus nói cho bạn bè biết độc kế của mình và bảo:

- Nào! Bây giờ chúng ta mỗi người nên tặng thiếu phụ này một món quà.

Rồi để làm gương và khuyến khích bạn bè, chính Zeus thân tặng cái tượng xinh đẹp đó sự SỐNG, thế là cái tượng thành người thực sự.

Đến lượt Minerva, nữ thần trí tuệ ban cho thiếu phụ sự THÔNG MINH.

Lần lượt, các bạn của Zeus đều đích thân cho cô ta một món quà: kẻ cho sự DUYÊN DÁNG, người cho giọng nói THANH TAO, người thì cho nàng sự TÀI HOA, người cuối cùng cho nàng sự LỊCH THIỆP ; xong đâu đấy, Zeus bóp trán cố tìm cho nàng một cái tên xứng đáng với người nàng: PANDORA (có nghĩa là người có đủ các đức tính). Quả thật vậy, nàng là một người hoàn toàn chưa từng có.

Sau khi tan tiệc, Zeus đưa cho Pandora một cái hộp rất đẹp và ân cần dặn dò nàng rằng: trong hộp ấy có rất nhiều báu vật song không nên mở ra, cho đến khi nào gặp được một người đàn ông xứng đáng làm chồng. Pandora cúi đầu cảm tạ và hứa xin tuân lệnh. Đoạn, Zeus gửi nàng xuống mặt đất cùng với sứ thần của ông ta: Mercury.

Người đàn ông mà Mercury được mật lệnh của Zeus đưa Pandora đến gặp là Epimetheus.

Mercury nói:

- Epimetheus! Đây là người đàn bà xinh đẹp nhất mà Zeus gửi xuống cho anh làm vợ.

Epimetheus vốn đã được anh là Prometheus khôn ngoan hơn nhiều lần căn dặn rằng không nên nhận bất cứ món quà gì của Zeus, song khi thấy Pandora chàng bị sắc đẹp kiều mị của nàng mê hoặc cho đến nỗi chàng quên phắt lời anh báo trước. Thế là anh cưới phăng nàng.

Được tin ấy, Prometheus đùng đùng nổi giận, lập tức đến nhà em, với chủ tâm bắt em mình phải bỏ người đàn bà của Zeus mang tặng đó. Song, khi thấy mặt nàng, Prometheus nguôi ngay cơn giận dữ. Thật tình, ông vốn từ tâm, vả lại ai mà nỡ đối xử tàn ác với một người đàn bà xinh đẹp, dịu dàng, lễ phép, nhất là khi người đó đã thành em dâu của mình rồi?

Prometheus vui vẻ dùng cơm thân mật với hai em và không quên chúc lành cho đôi vợ chồng mới cưới trước khi cáo biệt.

*

Một hôm, trong lúc Epimetheus đi săn vắng nhà, Pandora một mình tha thẩn trong phòng khách, nàng chợt nhớ chiếc hộp quí của Zeus tặng, bèn lấy ra xem. Bây giờ đây nàng nghĩ ta đã gặp được người đàn ông mà số phận định đoạt cho, ta rất có thể mở hộp ra, trong đó chắc có nhiều món nữ trang quí giá.

Pandora hồi hộp đặt tay lên cái nắp bằng kim khí chạm trổ rất tinh vi, toan mở thì bỗng nàng nghe một giọng nói cất lên:

- Đừng mở! Hãy nghe ta! Pandora! Chớ tò mò dại dột, ngươi cãi ta mở ra thì tai họa tới liền ngay, ta bảo cho biết trước.

(Đó là lời của Athémas, nữ thần không khí, rất khôn ngoan và phúc hậu vốn là bạn tốt của loài người) Pandora kinh hãi nhìn quanh không thấy ai nhưng biết rằng đó là lời can ngăn hợp lý. Nàng buồn bã mang hộp cất vào ngăn kéo.

Nhưng bắt đầu từ đó nàng mất hẳn yên, vui. Tâm trí nàng chẳng lúc nào được thảnh thơi vì chiếc hộp luôn luôn ám ảnh. Càng nghĩ đến nó, nàng càng muốn mở ra. Nàng nghĩ rằng mình sẽ rực rỡ, xinh đẹp bội phần nếu được sử dụng những nữ trang quí báu nằm trong hộp, bởi nàng đinh ninh rằng trong hộp chắc chắn chỉ đựng nữ trang thôi.

Cho đến một hôm, Pandora lại lấy chiếc hộp ra, nhìn chăm chăm vào đó hằng giờ như bị một sức mạnh ma quái thôi thúc. Cuối cùng, không nhịn được, nàng tự nhủ:

- Ừ! Thì mình không mở ra, nhưng mình có thể he hé ra một tý nhìn qua chắc cũng không hại chi đâu, ừ, chắc không hại gì, mình chỉ he hé... nhìn qua rồi đậy ngay lại đấy mà!

Thế rồi, Pandora mở khóa. Song nàng vừa bật được cái nắp lên khỏi hộp độ vài phân thì... khủng khiếp làm sao: hàng vạn, hàng vạn con vật xấu xí trông hết sức kinh tởm bay vù ra. Chúng ùa ra khỏi phòng, trong không khí và sau cùng, vào tận nhà của mọi người! Chúng là BỆNH TẬT, là LO SỢ, BUỒN KHỔ, TAI NẠN (bởi tận lúc bấy giờ loài người vẫn không biết đau bệnh, tai biến, lo sợ là gì) Pandora kinh hoảng, rụng rời, nàng vội vàng đậy kín nắp hộp. May thay, còn sót lại trong hộp một sinh vật, đó là HY VỌNG.

Từ ấy trở đi, loài người bắt đầu khổ sở vì đau ốm, lo buồn, tai biến... nhưng có điều may mắn là trong những giờ phút chán đời, khổ sở đó, có một người bạn luôn luôn giúp họ chịu đựng và vượt qua những thử thách, cam go, đó là Niềm Hy Vọng!


(Progress books)   
Minh Quân dịch   

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 53, ra ngày 15-9-1966)

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2018

Miếng Thủy Tinh Ma Quái


Ngày xưa có một cậu bé con và một nhà phù thủy. Cậu  bé con và nhà phù thủy gặp nhau tại một hàng bán kem. Nhà phù thủy muốn mua một cái kem. Thực ra ông ta có thể dùng phép phù thủy để mua kem được. Nhưng ông ta không muốn thế, ông chỉ muốn mua một cái kem thực sự bằng tiền thực sự chứ không phải bằng tiền phù thủy. Khổ nỗi trong túi nhà phù thủy lại chẳng có đồng xu nhỏ nào. Vả lại lúc đó dù có muốn dùng phép cũng chẳng được nào bởi lẽ gần đó có một viên cảnh sát đứng trông coi về trật tự, mà nhà phù thủy thì lại không muốn trái luật, lúc nào cũng muốn tỏ ra lịch sự. Cho nên dù thèm kem đến rỏ giãi ra, nhà phù thủy đành bấm bụng bỏ đi. Nhưng đúng lúc đó cậu bé con chạy đến đưa tiền mua hai cây kem dâu, rồi đưa cho nhà phù thủy một cây. Ông này cảm động lắm, liền lấy trong túi ra một miếng thủy tinh và đưa cho cậu bé.

Cậu bé con nào trên thế giới, khi cầm một miếng thủy tinh trong tay mà lại không ngắm nhìn chăm chú. Cậu bé con của chúng ta cũng vậy, vừa nhìn vào miếng thủy tinh vừa tự hỏi: "Không biết cái thằng cha phù thủy râu ria rậm rạp bẩn thỉu đó biến đi đâu mất rồi". Nhưng cậu nhìn thấy lão ta ngay. Nhìn qua miếng thủy tinh cậu thấy lão ngồi trên ót cái ghế đằng sau có bẩy ngọn núi và chín cái thung lũng, đang ăn kem ngon lành. Trên đầu lão có một cái bảng viết mấy chữ: dùng chữ phải dùng cho đúng, ai lại nói thằng cha phù thủy bẩn thỉu, râu ria rậm rạp, biến đi đâu mất rồi ; phải nói ông phù thủy già tốt râu đó đi đâu mất rồi."

Cậu bé vốn không ngốc nghếch gì. Cậu nhìn miếng thủy tinh rồi nghĩ: 7 và 8 cộng lại thành 16. Trong miếng thủy tinh hiện lên mấy chữ: 7 cộng 8 không phải thành 16 mà chính là 15. Thì ra cái miếng thủy tinh này nói gì là chắc như cua gạch, không thể nào sai lầm được. Muốn thử một lần nữa, cậu lại nghĩ: Ba Lê là một thành phố ở Phi châu. Thủy tinh lại viết: Ba Lê là một thành phố ở nước Pháp, ở Âu châu chứ không phải ở Phi châu.

Từ đó trở đi cậu bé tự nhiên học giỏi lên vô kể. Mỗi khi thầy giáo hỏi câu gì cậu chỉ việc nghĩ bậy nghĩ bạ rồi nhìn vào trong miếng thủy tinh là có câu trả lời đúng ngay. Chỉ có điều là thích chí vì có miếng thủy tinh phù thủy đó cậu ta không giữ kín điều bí mật của mình lại đi nói vung lên cho mọi người biết. Cậu còn giúp các ông anh lúc đó đang học trường công chánh làm các cây cầu hay giải quyết những bài toán thực khó. Các anh cậu liền đem bạn bè đến hỏi. Và chẳng bao lâu học trò trường nào cũng đến hỏi hết và học trò nào cũng trở nên giỏi hết.

Trong khi đó sau khi ăn xong cây kem, lão phù thủy mở sách tiên tri ra xem và đọc thấy trong đó: Cậu bé có một miếng thủy tinh phù thủy sẽ trở thành kiêu căng đến độ không thèm giúp đỡ ai nữa hết. Vả lại nếu tình thế này tiếp tục thì sẽ không có học sinh nào muốn học nữa vì học làm gì khi chỉ cần hỏi cậu bé là biết hết mọi thứ. Lão phù thủy vứt que kem đi và nghĩ rằng miếng thủy tinh của mình sẽ gây tai hại trên thế giới, và mình đã trả tiền cây kem quá đắt. Nhưng làm sao bây giờ? Lão suy nghĩ trong nhiều tháng mà chẳng biết làm sao.

Trong khi đó cậu bé quả nhiên trở thành kiêu ngạo quá sức mình, chẳng chịu giúp đỡ ai hết. Một hôm cậu ta tự nhủ: "Mình phải nhìn vào trong miếng thủy tinh xem ai là người thông minh nhất thế giới mới được". Tất nhiên cậu ta chờ đợi là trong miếng thủy tinh sẽ hiện ra những chữ vàng đỏ chói và sẽ trả lời: Người thông minh nhất thế giới chính là cậu đó. Nhưng than ôi, quả trong miếng thủy tinh có chữ vàng hiện rõ rất đẹp trên nền đá cẩm thạch thực, nhưng dưới những chữ vàng đó cậu ta còn thấy vẽ một con lừa to tướng cũng màu vàng luôn.

Vốn là một con người kiêu ngạo tột độ, cậu bé bực mình ném mạnh miếng thủy tinh xuống đất vỡ tan ra từng mảnh. Thế là mọi việc lại trở lại tình trạng bình thường như trước. Nghĩa là cậu bé lại trở thành một cậu bé dốt nát chưa biết gì hết trọi như trước và cố nhiên phải cắm đầu học đọc, học viết, học toán v.v... Học một cách chẳng có gì dễ dàng cả, có thể nói là khó nhọc nữa vì cậu bé chỉ có một trí thông minh bình thường như mọi người thôi.

Còn lão phù thủy thì từ đó trở đi, đi đâu lão cũng mang theo một ít tiền lẻ để nhỡ ra có thèm ăn kem thì đỡ phải nhờ một cậu bé khác mua hộ.


NGUYỄN XUÂN HIẾU     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 3, ra ngày 29-8-1971)


Thứ Năm, 6 tháng 9, 2018

Chiếc Áo Của Ngày Về


Trong thành phố này còn hai bóng hình thân yêu của quá khứ mà tôi luôn luôn mong được gặp lại: bà giáo Hội dậy tôi năm lớp tư và thầy giáo Huy dậy tôi năm lớp nhất.

Đó là di tích cuối cùng của ngôi trường cũ. Những ngôi trường nhỏ của tuổi lên năm lên mười thường là nơi ta tha thiết muốn tìm về. Từ hàng hiên, mái ngói, bóng cây đều có thể làm xao xuyến giấc mộng kẻ tha hương. 

Hành trang của một chú bé khi rời đất Bắc tất nhiên chẳng còn gì. Sau bao năm tháng những hình bóng cũ biến thành một nỗi tiếc thương không ray rứt nhưng vẫn khắc khoải, đậm đà. Quá nhiều chuyện mới diễn ra trước mắt, vô vàn kỷ niệm mới chồng chất lên ký ức tôi, nhưng ngôi trường nhỏ vẫn còn đó góp mặt  vào những cơn sầu nhớ mênh mang, tưởng như vô cớ.

Một lần nào đó, trong căn nhà của một người bạn mới quen, tôi gặp lại hình chụp Tháp Rùa chìm trong sương mai, tôi chợt nghĩ đến tất cả những bức hình cũ, đã vàng ố trong hành trang của những kẻ rời bỏ quê hương. Mỗi người mang theo một hình bóng thân yêu của mình. Con đường cũ, căn nhà xưa gây xúc động đặc biệt cho những người liên hệ với nó. Tháp Rùa, Chùa Một Cột có thể là một nỗi nhớ thương chung, nhưng chỉ là nỗi nhớ nhẹ nhàng, phảng phất.

Thầy Huy, bà Hội còn tiếp tục dạy học. Có hàng ngàn đứa trẻ đã ghi trong trí nhớ hình ảnh hai người. Nhưng với riêng tôi, hai người đó là một thứ hành trang tình cờ, tôi không hề mang theo, mà tôi còn lại.

Cho tới nay, tôi vẫn chưa có dịp nào thực sự được ngắm nghía thỏa thích hai bức hình kỷ niệm sống đó.

Một buổi trưa, dừng xe ở một ngã năm, chờ đèn xanh, tôi thoáng thấy bà giáo Hội đi bên kia đường rẽ vào một ngõ hẻm.

Lúc đó tôi đang vội vã. Hai năm nay tôi luôn luôn vội vã, đến nỗi thành thói quen. Thói quen này kéo theo một thói quen xấu khác, ưa suy tính cả trong những trường hợp không cần thiết. Nắng trưa như cháy da, tâm trí tôi đã bứt rứt, không yên. Tôi mang máng nhớ rằng tôi đang vội vã, tôi tự hỏi sẽ phải bỏ ra bao nhiêu thời giờ, nói những câu gì để bà giáo Hội có thể nhớ ra đứa học trò cũ. Một thanh niên ba mươi tuổi rất khó nhắc bà nhớ nổi hình dáng của một đứa trẻ học lớp tư năm xưa.

Khi nghĩ ngợi băn khoăn về tất cả những điều ấy xong, tôi đã phải vòng quanh cái trụ đèn đặt giữa ngã năm. Rồi tới lúc mà tất cả sự xôn xao, cảm động xô giạt mọi suy tính, tôi chỉ còn nghĩ một điều giản dị: phải gặp bà, phải nói với bà lập tức rằng tôi là học trò cũ của bà, tôi chạy tới con hẻm kia thì không thấy bà đâu.

Lúc đó tôi mới tự phiền trách mình. Nếu không còn một dịp tình cờ nữa, tôi làm sao gặp lại bóng hình của quá khứ ấy. Năm nay bà giáo Hội đã già. Cứ trông đợi ở một dịp tình cờ khác tôi sợ sẽ có ngày tình cờ đọc thấy ít dòng chia buồn, cáo phó trên báo. Khi đó tâm trí lại vang lên điệp khúc bi thương: chẳng bao giờ nữa, chẳng bao giờ nữa!

Thêm vào những nỗi ân hận lớn nhỏ chất chồng trong tôi lại có thêm cả vụ bắt hụt một hình bóng thân yêu cũ, ngày hôm đó. Những nỗi ân hận kín đáo, âm thầm như một gói hành lý vô hình nhưng thật cồng kềnh, nặng trĩu. Nó khiến cho người lữ hành trong đôi ngày mệt mỏi, tuyệt vọng, có cớ để thấy ra cái vẻ phơ phất của mình giữa kiếp phù sinh.

Ôi chao! Mình cũng chẳng ra gì!

Nếu không có duyên gặp gỡ, người ta có hàng trăm ngàn năm, có cả quả địa cầu để tránh né nhau.

Ra đời bên nhau một thế kỷ hai người sẽ chỉ tìm nhau qua bức tường thời gian dầy đặc, mịt mù. Đứa trẻ chào đời ở Á Châu cùng giây cùng phút với đứa trẻ sanh ra ở Phi Châu có thể suốt đời không một lần gặp gỡ. Không gian, thời gian cách biệt nghìn trùng, dịp may gặp gỡ chỉ như một cái chấm nhỏ.

Kẻ lạc bước trong sa mạc, phút hấp hối, hắn muốn làm quen với tất cả nhân loại. Hắn sẽ cảm thấy thật thấm thía sự cần thiết những kẻ khác, những con người đồng thời. Hắn mơ về những vùng đất có con người, có sự gặp gỡ.

Một kẻ nào tình cờ đến bên hắn lúc đó sẽ trở thành hùng vĩ, phút gặp gỡ sẽ hóa thành phép mầu.

Giữa sự mênh mông của thời gian, không gian mỗi cuộc gặp gỡ đều như một cái chấm hiếm hoi và quí giá. Nhưng hai kẻ đồng thời được đặt trong cùng một đường phố suốt đời vẫn là khách lạ. Tôi mến nó cùng những người vồn vã thích làm quen, thích bạn bè. Cũng như ta họ xẹt qua cuộc đời một giấc chưa dài trăm năm, nhưng trong cái vẻ vui tươi cất tiếng gọi người này, vỗ vai người kia, ta tưởng như có hàm ý, thiết tha chú trọng đến duyên gặp gỡ, đến sự may mắn của những người không bị trăm năm trước mặt, ngàn năm sau lưng hay đường xa vạn dặm cách ngăn.

Trong niềm thao thức thương nhớ quê hương, tôi là kẻ lạc trong sa mạc, khao khát không nguôi những giọt nước hình bóng cũ.

Tôi tưởng sẽ chẳng còn gặp một ai cùng nhắc nhở tới ngôi trường nhỏ bé năm xưa. Chỉ có một mình tôi bơ vơ trong những tiếc thương mơ tưởng thầm lặng.

Bởi thế, bà giáo Hội, thầy Huy xuất hiện như một ảo ảnh tươi mát dù hồi đó địa vị của hai người và tôi khác nhau.

Trong giờ học cũng như trong giờ chơi, nhưng chúng tôi đã cùng thấy những tàn cây ngoài cửa sổ, lớp sơn vàng trải đầy sân trường. Trong trí nhớ của chúng tôi có cả sợi dây đu buộc vào một cành cây lớn ở sân sau.

Thầy giáo tôi có thể quên mùi hương đặc biệt của cỏ cây vào đầu mùa hoa phượng, nhưng chắc không quên những trái me khô rụng rải rác đầy sân trường vào mùa thu.

Những con đường nhỏ quanh trường, những con đường của tỉnh lỵ ấy tôi nhớ hết. Nếu tôi nhắc chắc hai người sẽ nhớ. Chúng tôi sẽ dắt nhau về thăm những hình bóng cũ trong cảm giác khắc khoải ngậm ngùi.

Trí nhớ của người này nâng đỡ trí nhớ của người kia. Tiếng nói người kia bắt cầu cho tiếng nói người này. Trên con đường tìm về quá khứ, chúng tôi phải dò dẫm, hụt chân, bước sai, bước lệch, nhưng chúng tôi không lạc đường. Chỉ có thầy giáo, bà giáo hiểu rõ nỗi xôn xao trong lòng tôi khi tôi nhắc tới hai tiếng sân trường. Cũng như chỉ mình tôi thấy được từng hốc cây, bụi cỏ, mùa hoa phượng rực rỡ ràng vào trong trí nhớ của hai người.

Trên mặt cát mênh mông cháy bỏng vừa xuất hiện những vết chân. Người lữ hành tuyệt vọng, bắt được dấu tích thân yêu của nhân loại thân yêu tất phải nhào tới...

Tìm gặp được thầy Huy lần đầu tiên tôi không hề vội vã, nhưng chính thầy lại là người không thể đứng nói chuyện lâu.

Thầy dậy ở một ngôi trường bên Khánh Hội. Tôi đến đúng giờ tan học, thầy vừa cho học trò ra khỏi lớp.

Mới đầu thầy lầm tôi với một cậu học trò nào đó ở Hải Dương. Khi thầy được nhắc nhở tới, nhớ ra tôi nhớ cả chỗ tôi ngồi trong lớp cùng một vài người bạn hồi ấy của tôi thì thầy cũng tỏ ý không thể tiếp tục câu chuyện được. Thầy phải đi đón cậu con út mặc dầu khi gặp tôi thầy sung sướng và cảm động thật tình.

Hai hôm sau, một buổi tối, tôi lần theo địa chỉ thầy ghi lại cho. Khi đến trước cửa nhà thầy tôi chợt hiểu tại sao thầy cũng luôn vội vã, gấp gáp.

Căn nhà lụp xụp, bề ngang được chừng ba thước, trước cửa nhà nước đọng sau trận mưa buổi chiều còn ngập tới cổ chân. Trong nhà, trên chiếc phên gỗ, ba đứa trẻ sàn sàn tuổi nhau đang đùa nghịch, đập lộn nhau bằng mấy cái gối vải. Đây là căn nhà có thể tìm thấy ở bất cứ xóm lao động nghèo khổ nào.

Tôi hiểu rằng ông chủ của một gia đình chui rúc trong một căn nhà như vậy luôn luôn phải vội vã gấp gáp.

Hai năm nay, tôi đã có nhiều kinh nghiệm về sự vội vã không thể tránh được. Đời sống ngày một khó khăn, muốn cho sinh hoạt gia đình bớt suy sút, thê thảm, cách duy nhất là tăng năng suất làm việc, rồi tăng giờ làm việc. Cứ thế mỗi ngày tôi phải đem thêm thời gian để bú đắp vào chỗ thiếu thốn của ngân quỹ gia đình.

Tôi hỏi mấy đứa bé:

- Ba đâu?

Đứa nhỏ nhất trả lời bằng giọng còn hơi ngọng:

- Ba đi dạy học.

- Giờ này còn dạy học?

Đứa lớn nhất giải thích:

- Ba dạy tư, chín giờ về.

Còn một giờ rưỡi nữa, tôi lững thững trở ra đầu hẻm tìm một quán cóc. Đã chắc gì lát nữa gặp nhau thầy sẽ vui?

Nghe một đứa học trò cũ nhắc lại nghĩa cũ tình xưa có thể thầy rất sung sướng. Nhưng tôi sợ rằng thầy không còn thì giờ để hưởng sự sung sướng ấy. Sau một ngày làm việc liên tiếp thầy rất mệt. Thì giờ ở nhà chắc cũng được tính toán cả rồi. Giờ nào ăn cơm, giờ nào soạn bài, chấm bài. Tất nhiên cái thời khóa biểu thường nhật của thầy không có thì giờ nào dành để tiếp học trò cũ. Phút gặp gỡ vui vẻ có thể bắt thầy trả giá đắt. Sau cuộc viễn du vào quá khứ thầy lại lo hoàn tất công việc để ngày mai khỏi thiếu sót. Thầy phải thức khuya hơn, vất vả hơn.

Trong sách giáo khoa dạy trẻ có kể chuyện ông đại tướng về thăm thầy cũ. Dưới mái trường xưa, ông đại tướng cảm động vô cùng khi nói với đám trẻ rằng trước đây ông đã từng ngồi chỗ chúng đang ngồi, học ông thầy mà chúng đang học. Ông thầy cũ tất nhiên vừa kiêu hãnh vừa xúc động.

Làm tới đại tướng người ta có thể về thăm thầy cũ một cách dễ dàng, vì ít nhất cũng đem theo một niềm tin kiêu hãnh. Còn kẻ tầm thường đi tìm hình bóng cũ thấy đường sá gập ghềnh gian nan quá.

Trong lòng những chú bé ngoan xưa, luôn luôn nặng một ước mơ đầy hiếu kính.

Chú bé mơ ước rằng sau này, lớn lên chú sẽ giàu có. Chú sẽ kiếm ba, kiếm má, kiếm thầy cũ, bạn hữu, biếu họ thật nhiều tiền để ai nấy đều sung sướng. Chú thật lòng muốn đền ơn những nhân vật mến yêu thuở đầu đời.

Ước mơ thuở nhỏ viển vông và dễ thương. Nhưng giả thử bây giờ tôi giầu có thật, nỗi băn khoăn sẽ tan biến ngay. Tôi sẽ xóa bỏ bớt những thiếu thốn của thầy, để thầy bớt vội vã. Tôi sẽ biến những giờ phút cực nhọc của thầy thành những giây phút thanh nhàn để cùng ngồi ôn quá khứ.

Đến với thầy trong tình xưa nghĩa cũ là quí rồi. Trước đây tôi hân hoan nghĩ thế. Nhưng rõ ràng là cuộc đời không chịu dừng lại chờ đợi và nuôi dưỡng một chút tình người.

Câu chuyện về ngôi trường cũ, lớp học xưa sẽ diễn ra thế nào giữa hai người cùng thắc thỏm nghĩ tới sự tiến đều của chiếc kim đồng hồ? Sự tàn phá của miếng cơm manh áo thật lặng lẽ mà vô cùng khốc liệt.

Trên cái chấm nhỏ, giao điểm của hai con đường thời gian, không gian dài vô hạn, chúng tôi đang gặp nhau. Nhưng rồi trong cái chấm đó vẫn còn biết bao nhiêu khoảng cách mênh mông.

Buổi tối hôm ấy, tôi ngồi ở quán cóc suy đi tính lại cho tới tám giờ rưỡi, rồi về.

Người phiêu bạt bỏ xứ sở ra đi chỉ muốn được về làng với chiếc áo gấm. Kẻ rời bỏ những ngày thơ ấu muốn gặp lại thầy, cô, chẳng cần phải có y phục lòe loẹt, nhưng mảnh áo gấm cần thiết của hắn ta chính là sự nên người.

Tôi thấy tôi đã chẳng ra gì. Gặp lại thầy để trình ra một cuộc đời mà chỉ cần kể lại năm mười phút đã có dăm bảy lời than thở, đôi ba tiếng thở dài! Đường tìm về chút kỷ niệm xưa sao mà xa thăm thẳm.

Thầy đã không may, học trò thầy lại chẳng đạt. Phút hội ngộ dù đầy xúc cảm, nhớ thương vẫn mênh mông ai oán. Bởi vì nơi ngôi trường nhỏ bé ấy, lời dạy dỗ đầu tiên thầy gửi đến đám trẻ thơ đã hàm chứa một nguồn hy vọng.


LÊ TẤT ĐIỀU  


(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 1, ra ngày 15-8-1971)



Thứ Tư, 5 tháng 9, 2018

Những Giọt Mực


Đêm hơi lạnh. Ánh trăng lọt qua cửa sổ, soi sáng một chút mặt ông Bàn. Bình mực thủy tinh đổ nghiêng, mang trên mình vầng trăng nhỏ xíu, lấp lánh, xa vời. 

Dòng mực xanh chảy lan trên mặt ông Bàn đã khô. Đáy bình còn một gợn đen đậm nhỏ. Đó là ba giọt mực cuối cùng. 

Ông Bàn giận lắm. Chưa bao giờ ông giận đến thế. Chú Ngăn kéo sợ ông sẽ quẳng tất cả các vật trên thân thể ông xuống, kể luôn chú. Chú gắng thu xếp các vật trong lòng mình, cho chúng nằm thứ tự gọn gàng. Ở đậu trong bụng ông Bàn, chú Ngăn kéo luôn tế nhị, giữ gìn. 

Nhưng lần này, lỗi không ở chú Ngăn kéo. 

Ông Bàn to tiếng: 

- Ông Cung, cụ Sách nghĩ coi: tôi làm sao chịu nổi. Trong phòng này tôi là món đồ xui xẻo, cực khổ nhất. Vật gì cũng có thể nhảy lên mặt tôi được. Ban ngày tôi còn phải cõng cả ánh nắng, ban đêm cõng ánh trăng, toàn những món do chị Cửa sổ mang về. 

Cửa sổ nhỏ nhẹ: 

- Ánh trăng và ánh nắng nhẹ hều mà. 

- Đồng ý. Nhưng chị phải biết ánh nắng có thể làm tôi vỡ mặt ra. Nhưng chuyện đó bỏ qua. Tôi xin hỏi mọi vật: tôi là bàn tôi đâu có là anh hề nhựa, sao mặt tôi ngày một bẩn thỉu, kỳ cục, đầy những nét mực dọc ngang, lộn xộn?  

Anh Bút chì nằm bên cạnh cô Vở quăn góc, nói nhỏ:

- Cháu chỉ lỡ vẽ trên mặt bác một cái xe hơi, một cái nhà…

Anh Bút bi cũng lên tiếng: 


- Cháu vẽ một con vịt. 

Ông Bàn giận dữ hơn: 

-Hình đó đâu phải là con vịt. Đó là thứ quái thai vịt, đầu to như đầu ngựa, hai cẳng như cây tăm. Tôi yêu cầu các cháu từ giờ đừng có trổ tài hoạt họa nữa. 

Cụ Sách lên tiếng, nghĩa là mở cửa kho đạo đức: 

- Những vật ở trên mặt ông Bàn không biết điều chút nào. Hãy noi gương những vật đã ở nhờ trong lòng ông Tủ. Họ tới, họ đi, biết bao đợt rồi, lòng ông Tủ vẫn sạch sẽ. 

Ông Cung góp lời: 

- Vật cẩn thận không bao giờ để lại dấu tích nơi mình đã cư ngụ, nhất là những dấu tích mất vệ sinh. Ngày xưa, khi còn đi theo các chiến sĩ, ta đã từng cắm trại, các chiến sĩ không để lại một cái hố nhỏ. 

Sau câu nói của ông Cung, ông Bàn đã bớt càu nhàu, nhưng chưa nguôi giận. 

- Lỗi tại tôi xin ông Bàn tha thứ. Tôi đứng không vững nên mới ra cớ sự. 

Đó là câu nói của bình mực thủy tinh. Tất cả xôn xao của mọi vật, cùng cơn giận của ông Bàn hình như bây giờ mới làm hắn bừng tỉnh. Không phải hắn lì lợm, bướng bỉnh. Hắn là vật đãng trí mơ mộng nhất trong phòng. 

Dù chứa mực trong lòng, thân thể hắn vẫn có những phần trong veo. Cảnh vật in hình trên đó, nhỏ xíu, mơ hồ. Không giống mặt gương, phản chiếu hình một cách máy móc, chính xác. Bình mực bóp méo khuôn mặt mọi vật theo ý hắn. 

Những đêm trăng như đêm nay, đứng gần cửa sổ, hắn chứa cả trăng, sao, bầu trời yên tĩnh. Vài cành cây bên cửa xao động làm cho mảnh thế giới in trên bình mực sinh động, đẹp tuyệt vời. Tất cả mang một màu xanh hơi tối. Nếu một chú kiến lạc vào thế giới nhỏ bé, xinh xắn ấy, chú sẽ biến thành thi sĩ. 

Vì vậy, bình mực của chúng ta hóa ra là một vật mơ mộng.

Bình mực đổ, từ cái miệng tròn vo của hắn, mực trào ra, hào hứng như bọn tù vượt ngục. Mặt ông Bàn thêm một vết đen lớn khủng khiếp. Đó là lý do khiến ông giận dữ, nói những lời cay đắng, trách móc lung tung. Tai họa xảy tới từ hồi chiều. 


Bình mực đã công khai nhận lỗi, dù chậm, ông Bàn cũng hài lòng. Ông già rồi, không chú ý tới dung nhan mình. Vết mực loang lớn thật, nhưng so với những hình vẽ lăng nhăng, những vết dao chém, nó cũng chẳng làm ông xấu hơn được. Tuy nhiên ông Bàn vẫn dọa: 

- Bây giờ anh mới biết lỗi à? Tôi sẽ quẳng anh xuống đất, cho anh vỡ tan xác ra. 

Ông Bàn rung nhẹ, các khớp gỗ kêu cót két. Nhiều vật tưởng ông quyết liệt hạ bình mực, đều hoảng kinh. Cụ Sách cất tiếng:

- Xin ông Bàn bớt nóng. 

Những cây Bút mực cũng cuống quít can ngăn: 

- Anh Bình mực thật dễ ghét, nhưng thiếu anh ấy, chúng cháu mất kho nhiên liệu, hóa vô dụng. Mong ông nghĩ lại. 

Chỉ có Bút chì im lặng. Đương sự rất đắc chí vì có thể tự lực, tự cường. Hắn viết ra những chữ mờ nhạt, nhưng khỏi cần nhờ vả, lệ thuộc anh nào. Bình mực sống chết chả ăn nhậu gì tới hắn. Bút chì bị mang tiếng ích kỷ và vụng về. Hắn phải đeo kè kè ở sau đuôi một cục tẩy tròn chuyên việc xóa những bước đi lỗi lầm của hắn. 

Những bông hoa thuộc loại tình cảm, nghe chuyện cãi vã xô xát đã thất kinh. Giọng hoa run rẩy: 

- Ông Bàn chớ làm vậy! Ông Bàn chớ làm vậy! 

Chỉ có ông Cung, vật từng trải, lão luyện là biết ông Bàn dọa chơi. Một vật dễ giận, dễ to tiếng, rồi dễ nguôi như ông Bàn, ít khi làm chuyện ác độc. 

Bình mực thủy tinh cũng sợ hãi. Rơi từ mặt bàn xuống, chắc tan xác thật? Nhưng vật đãng trí và mơ mộng này lại tự an ủi bằng trí tưởng tượng. Cần quái gì. Hắn nghĩ. Nếu tan thành trăm mảnh, ta sẽ là trăm mảnh lóng lánh sáng, trăm mảnh mang hình trăng tròn, trăm mảnh bầu trời ngoài khung cửa sổ… không còn một giọt mực nào dính trên thủy tinh, cả trăm mảnh sẽ trong veo. 

Tuy nhiên trăm mảnh rực rỡ đó không sống lâu, sẽ gặp nhau trong sự tăm tối của thùng rác. Kẻ mơ mộng, sau phút tưởng tượng tới sự tan tành đẹp đẽ, bỗng biết ớn: 

- Tôi đã nhận lỗi rồi mà. Tôi xin hứa sẽ cẩn thận hơn. 

Bình mực chưa dứt lời, mọi vật bỗng nghe tiếng khóc. Tiếng khóc vang lên từ trong lòng bình mực. Tiếng khóc tỉ tê tuyệt vọng. 

Mọi vật sững sờ, im lặng, lắng nghe. Ông Bàn bối rối trước tiên: 

- Này chú Bình mực, ta dọa chơi vậy thôi, sao mà nhút nhát quá vậy?

 Bình mực cãi: 

- Ông lầm rồi, tôi đâu có khóc. 

Quả vậy, đó là tiếng khóc nhỏ bé của ba giọt mực cuối cùng, còn đọng dưới đáy bình. 

Ba giọt mực tụ lại, như một giọt nước mắt đen lớn buồn thảm. 

Hàng ngàn giọt mực đến rồi giã từ bình mực. Bình mực biến thành nơi tạm trú của chúng. Mới đầu vật mơ mộng này cũng lưu luyến, tất cả những khách trọ. Sau đó quen đi, hắn trở về với nếp sống mơ mộng riêng . 

Tiếng khóc của ba giọt mực khiến hắn kinh ngạc. 

Bông hồng khẽ hỏi: 

- Làm sao các em lại khóc? 

Một giọt mực nghẹn ngào: 

- Bọn em đang khô dần. 

Giọt mực thứ hai: 

- Chúng em không bao giờ được làm bổn phận của loài mực. 

Giọt mực thứ ba tiếp lời: 

- Tất cả những giọt mực cùng sinh ra đời với chúng em đều đã sống đầy đủ. Họ được những anh chị bút đón ra khỏi bình, họ biến thành chữ, thành hình vẽ. Họ khô trong danh dự vinh quang. Chúng em không như vậy. Chúng em đang héo tàn trong đáy bình mực một cách vô duyên. 

Những câu than thở của ba giọt mực khiến cho muôn ngàn chữ trong tất cả những sách vở bừng tỉnh. 

Sau đó muôn ngàn chữ cùng hân hoan. Tiếng than của kẻ hậu sinh như lời khen tặng các vị tiền bối. 

Cả những giọt mực đã khô hàng trăm năm, đang mờ tới nét chữ cuối cùng cũng góp niềm kiêu hãnh. 

Những giọt mực khô trong lòng cụ Sách thì reo vui hơi quá lố. Chúng ất tiếng cười, dù cố nén, vẫn làm cho những trang sách rung rung. Tất cả những giọt mực vào lòng cụ Sách đều biến thành lời đạo đức, khôn ngoan, dạy dỗ loài người, phác giác những chuyện huyền bí của vụ trụ. Những giọt mực ấy đã tìm được một địa vị hết sức cao trọng, như giọt mực xấu số thứ ba đã nói: " Họ khô trong danh dự vinh quang ".

 Cụ Sách phải nạt khẽ: 

- Này! Cười vui trước nỗi đau khổ của vật khác là vô ý thức. 

Căn phòng đỡ mất trật tự. 

Nhưng muôn ngàn chữ vẫn sung sướng, cười thầm, và ba giọt mực đang khô trong đáy bình, tiếp tục tỉ tê khóc. 

Chỉ có năm, sáu giọt mực khô trong lòng chị Vở cất tiếng an ủi: 

- Không ra khỏi bình các em đừng buồn. Như bọn ta đây, đâu có gì là sung sướng. Chúng ta không hóa thành chữ, mà thành một cái hình quái gở. 

Quả thực, cậu bé đã dùng những giọt mực này để vẽ một hình người đầu tròn, tóc lởm chởm, không có mũi, chân tay cong queo, kì dị. 

Những giọt mực khác, biến thành hình vẽ xấu xí trong vở, trên bìa sách, trên mặt bàn, cũng đua nhau an ủi ba giọt mực. Họ cho rằng ở vĩnh viễn trong bình còn hơn là biến thành những quái thai

Hàng trăm giọt mực, vết loang lớn trên mặt ông Bàn, bây giờ mới đủng đỉnh lên tiếng: 

- Còn bọn chúng tôi thì sao? Cũng nhục nhã lắm chứ. Cả trăm mạng hóa thành vết đen dơ dáy trên mặt ông Bàn, chúng tôi đâu có khóc. 

Ba giọt mực vẫn khăng khăng: 

- Thà làm một vệt đen còn hơn khô héo trong đáy bình. Chúng tôi biết không phải giọt mực nào cũng gặp may mắn khi ra đời. Nhưng đã là mực, phải được ghi một vết ở đâu đó. Là chữ, là hình vẽ, là một cái chấm xấu xí cũng được, chúng tôi muốn ra khỏi bình. Chúng tôi không muốn chết non và chết vô ích. 

Các vật trong phòng lặng thinh. Ba giọt mực cảm thấy mình đang khô héo mau hơn, lại tỉ tê khóc. Bông hồng nghe nhắc chuyện chết chóc, buồn cánh. Chị Bóng bay thơ thẩn lăn tới một góc nhà, ngậm ngùi thương những vật nhỏ bé mong manh. 

Chú con Quay muốn cất lời an ủi. Nhưng chính chú cũng nghĩ rằng một vật sinh ra đời chẳng để làm gì, chẳng có ích gì thì vật đó buồn phát khóc là phải. 

Bỗng dưng ông Bàn hỏi to: 

- Sao? Cụ Sách, trong cái bụng đầy nhóc thông thái của cụ, không có ghi câu nào an ủi ba giọt mực hả? 

Hồi này, ông Bàn ưa trêu chọc cụ Sách. Ông nghi cụ vẫn có ý coi thường ông. Bụng cụ đầy chữ, bụng ông chỉ có chú Ngăn kéo dốt nát. Thỉnh thoảng ông tìm cách đưa cụ Sách vào thế kẹt. Chẳng hạn ông hỏi cụ: tại sao giầy dép không có chân lại đi khắp nơi, bàn ghế có tới bốn chân thì nằm một chỗ? 

Bây giờ ông lại làm cụ Sách lúng túng. 

- Ơ… tôi… nghĩ rằng ba giọt mực không nên buồn quá thế. Trời sinh ra muôn vật, mỗi vật có một số phận… 

Chưa bao giờ Sách nói một câu thiếu dứt khoát như vậy. 

Ông bàn bỗng phá lên cười: 

-Ha! Ha! Ha! Xin lỗi cụ Sách! Nhà cháu không đồng ý với cụ. Theo quan niệm của vật dốt nát này thì ba giọt mực không có quyền khóc. Cả ba phải reo mừng vì đã sống những ngày đầy ý nghĩa. 

 Cả phòng kinh ngạc, ba giọt mực nín khóc, lắng nghe. Ông Bàn vẫn cười ha hả: 

- Hãy coi cái thân tôi này. Tôi là bàn, tôi có hóa ra gì đâu, nhưng tôi đã để cho biết bao nhiêu vị ngồi trên mặt. Các vị ấy đều có ích, thế là cuộc sống của tôi có ý nghĩa. 

Ba giọt mực dưới đáy bình đâu có vô ích. Nếu họ không ở đó thì làm sao các anh chị bút có thể với tới hết tất cả những giọt mực khác? 

Ba giọt mực cuối cùng đã làm một việc có ý nghĩa nhất: họ đội những đứa khác trên đầu, suốt ngày này sang ngày khác. Nhờ vậy, những giọt đứng trên đầu họ mới bám vào ngòi bút, ra ngoài, biến thành chữ. 

 Chú Bình mực phải biết điều đó chứ. Bao nhiêu thế hệ mực đã qua trong lòng chú? Mỗi thế hệ đều có ít nhất ba giọt mực nằm dưới đáy, nâng các giọt mực khác lên cao. Sau đó, những giọt hy sinh khô đi trong lặng lẽ. 

 Khi nãy, tôi nghe các chữ, những giọt mực khô trong lòng cụ Sách đã cười. Thật là một vô ơn. Dù vinh quang hiển hách đáng lẽ ấy phải biết tới những giọt mực đã đội chúng lên, những giọt mực chịu nằm dưới đáy bình, chịu nhục nhằn, tăm tối và thiệt thòi. 

Vậy ba giọt mực bé tí teo, các cháu có quyền kiêu hãnh. Các cháu đóng góp vào rất nhiều sách vở. Và hàng tỉ chữ, hằng hà sa số hình vẽ trên cõi thế gian này đều mang ơn những giọt mực nằm dưới đáy bình.

 Ông Bàn không cười nữa, căn phòng im lặng hoàn toàn. 

 Một lát sau, cụ Sách nói với ông Cung Tên: 

- Lần này, tôi chịu thua lão già lỗ mãng. Lão chỉ có một cái bụng rỗng tuếch mà khôn gớm! 

Trong bình thủy tinh lóng lánh, ba giọt mực cuối cùng kiêu hãnh hân hoan bốc thành hơi. 

LÊ TẤT ĐIỀU   
  

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 4, ra ngày 5-9-1971) 


Thứ Ba, 4 tháng 9, 2018

Cái Khạp Tương


Một làn gió nhẹ thoảng qua, Thành thấy dễ chịu lạ. Lớp học thật im lặng, chỉ nghe tiếng cô giảng bài và tiếng phấn vạch mạnh trên mặt bảng. Nó đưa mắt nhìn quanh bạn bè nó, đứa nào cũng ngồi im, chăm chú theo lời cô giảng. Từ một ngôi nhà nào xa xa, có tiếng ru em vẳng lại:

    Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại, chịu lời đắng cay ơ... ơ...

Tiếng ru ngân nga kéo dài. Nó tự hỏi, tại sao cây cải về trời được? Mà bữa nay trời sao xanh thế! Nắng chói chang làm nó nhức mắt, nó nhìn lên bảng. Mãi một lúc nó mới nhìn thấy hàng chữ to rõ nét trên chiếc bảng rộng "khối viên trụ thẳng". Cô giáo nó vừa giảng vừa vẽ hình. Một vài đứa bạn nó đứng lên lập lại lời cô. Rồi cả lớp. Nó cũng mấp máy môi nhưng đầu óc trống rỗng. Cô vẽ hình gì trông ngồ ngộ. À! Sao giống mấy khạp tương ở nhà nó thế!

Ở nhà, má Thành buôn bán tương. Cha nó đạp xích lô vất vả thế mà cũng không đủ cho gia đình gồm một bầy con dại mà nó là chị cả. Má nó sáng sáng phải khuân mấy khạp tương ra chợ bán, kiếm thêm tiền. Mấy tháng nay, má nó than phiền hàng quá ế, bà lại dọn thêm một sạp nho nhỏ ở góc chợ để nó ngồi bán riêng, gọi là để phụ giúp gia đình. Sáng sớm, hai chị em nó khệ nệ khiêng khạp tương ra sạp, soạn sẵn bao ni lông, dây thung để chờ phiên chợ. Ngày nào khá, nó cũng kiếm cho má nó hơn trăm bạc. Khạp tương da bò 10 lít của nó giống y như cái khối viên trụ cô nó vừa vẽ trên bảng. Nó gật gù, thú vị khi khám phá ra điều đó.

Cô giáo vẫn vừa giảng bài, vừa hỏi kiểm soát. Thành khoanh tay thật tròn, mắt nhìn lên bảng ra vẻ chăm chú. Lời cô, lời bạn, sao nó nghe êm tai thế.Gió mơn man trên tóc. Nó nghe mi mắt cay cay, nằng nặng. Nó cố nhướng mắt lên, cố hết sức...

Cô giáo buông phấn xuống mặt bàn, xoa tay:

- Nào! Bây giờ tôi kiểm soát lại lần chót, trước khi các em chép bài nhé. Các em đã hiểu và nhớ chứ?

Cả lớp hăng hái:

- Dạ.

Cô giáo đảo mắt nhìn cả lớp, vẻ hài lòng. Bỗng tia mắt cô ngừng lại nơi Thành. Con bé lại ngủ gật! Sắp thi lớp 6 đến nơi rồi, mà học hành như thế đấy! Cô nghiêm giọng:

- Thành!

Đang mơ mơ, màng màng, bỗng nghe tiếng gọi, Thành giật bắn người, đứng bật lên. Thôi, cô giáo đã bắt gặp mình ngủ gật nữa rồi! Bao nhiêu lần cô giảng cho chúng nó nghe về ích lợi của sự học. Bảo phải học thế nào để đạt được kết quả tốt. Học để cho mình, để đáp đền "cơm cha, áo mẹ, công thầy". Đã bao lần cô khuyên nó phải ngủ trưa chút xíu, để vào lớp được khỏe khoắn, tỉnh táo học hành. Ánh mắt nghiêm khắc của cô làm nó thấy sợ hãi, cơn buồn ngủ tan biến thật nhanh chóng. Nó bối rối đưa mắt nhìn các bạn, cầu cứu.

- Thành, nhắc lại cho cô, định nghĩa của khối viên trụ thẳng xem?

Bạn bè nó tranh nhau giơ thẳng tay chờ cô gọi ; thế mà chẳng đứa nào hé môi nhắc cho một tí! À! Nó sực nhớ và biết chắc chắn chẳng đứa nào dám hở môi đâu. Cô nó đã từng phạt những ai làm xáo trộn trật tự trong lớp. Cô từng dặn là mỗi đứa đều phải chăm chỉ để hiểu bài, như thế về nhà học mới mau thuộc. Đứa nào không tuân kỷ luật, sẽ bị cô cho quả trứng ngay! Nó moi óc, suy nghĩ.

Tiếng cô thúc giục:

- Sao? Nhanh lên chứ? Ngủ gục, không chịu nghe tôi giảng bài, phải không chị Thành?

Tiếng cô nó dõng dạc. Nó bỗng thấy lo sợ. Nó biết ngay là cô đã bắt đầu bực mình đây! Tiếng "cô", tiếng "em" ngọt ngào bình thường đã được thay bằng tiếng "tôi", tiếng "chị" nghe khô khan và lạnh lùng.

Thành cố gắng một lần chót. Một ý nghĩ, một hình ảnh lóe nhanh trong đầu. Nó mừng rỡ như người đắm thuyền vớ được chiếc phao. Nó sẽ chứng tỏ cho cô thấy rằng nó cũng có nghe bài giảng, cũng nhớ bài và nhất là... không ngủ gục.

Không do dự, nó đáp nhanh:

- Thưa cô, khối viên trụ thẳng là cái khạp tương.

Cả lớp nó cười như vỡ chợ.

Cô giáo cầm thước kẻ, gõ mạnh lên mặt bàn viết, mày hơi cau lại:

- Im ngay! Các chị không được đùa.

Quay về hướng Thành, cô giáo tròn mắt:

- Em nói gì? Tôi bảo lập lại định nghĩa khối viên trụ thẳng cơ mà! Tôi đâu có bảo tìm thí dụ!

Thành bối rối! Vậy là bậy rồi! Chắc là bậy dữ lắm! Bạn bè quanh nó hãy còn cười khúc khích. Có đứa ôm bụng, dằn cơn cười, mặt đỏ rần.

Thành bỗng dưng thấy xấu hổ, cúi gằm mặt, tay mân mê tờ giấy chặm nằm lăn lóc trên mặt bàn. Tự nhiên, nó ứa nước mắt.

Tia mắt cô giáo nó bỗng dịu dần:

- Em lắng nghe cho kỹ và lặp lại cho tôi, nghe không?

Ba bốn đứa bạn nó được lần lượt gọi, nhắc lại câu định nghĩa. Rồi cả lớp.

Thành ghi nhớ vội vàng. Nó bị phạt phải nhắc lại đến 5 lần đọc trơn tru.

Giờ chơi, cô giáo gọi nó đến bên bàn viết, dịu dàng:

- Tại sao dạo trước em học cũng tạm được, mà mấy tháng nay em lại như thế? Cứ ngủ gật luôn trong lớp thôi! Tại sao? Nói cho cô nghe xem.

Nó ngần ngại. Mãi một lúc sau, nó mới ấp úng thuật lại công việc ở nhà cho cô giáo của nó nghe.

Cô xoa tóc nó:

- Em biết phụ giúp gia đình đó là điều tốt. Nhưng mấy giờ em mới dọn hàng về?

- Dạ, cỡ 11 giờ.

- Vậy từ nay, em cố gắng cơm nước sơm sớm hơn, rồi ngủ một tí trước khi vào lớp nhé. À! Mà tối cũng đừng thức khuya nữa đấy.

Nó cúi đầu nghe lời cô dặn.

Giọng cô nó vẫn êm ái:

- Tuy em phải phụ mẹ buôn bán, thì giờ không được rộng rãi như các bạn em ; nhưng em phải tự nhủ: em vẫn còn may mắn hơn biết bao nhiêu đứa trẻ khác. Biết bao nhiêu trẻ con khác phải chịu bơ vơ vì mất cha, mất mẹ. Chúng muốn cắp sách đến trường cũng không được. Cô nghĩ rằng, nếu em muốn, em vẫn có thể thu xếp công việc để học hành đàng hoàng như các bạn em. Thí dụ, tối đến, em cố học bài cho xong, đừng xem ti vi, trừ những chương trình dành cho thiếu nhi các em...

Tan buổi học, Thành vừa đi về vừa nớ lại lời cô dặn dò. Quả thật, nó ham xem ti vi hết chỗ nói!

Nhà nó chẳng có ti vi, nhưng mấy nhà đối diện hoặc bên cạnh nhà nó đều có cả. Nhà này sát với nhà kia. Tối tối, nó chỉ cần đứng ngay cửa sổ nhà nó nhìn sang nhà đối diện là có thể xem thật rõ ràng. Chả vì hai nhà chỉ cách nhau có con hẻm rộng không đầy hai thước. Đêm đêm, nó vẫn xem ti vi mãi đến khuya ; vì dạo này, sao có nhiều tuồng cải lương đến thế! Nhà bên kia, cửa cũng rộng mở, mãi đến hết tuồng. Âm thanh được mở thật to, từ trong nhà nó hãy còn nghe rõ mồn một. Nó cũng lấy làm lạ, đêm nào cô xướng ngôn viên cũng đều lễ phép yêu cầu: "xin quý vị vui lòng vặn âm thanh vừa đủ nghe, kẻo làm phiền...". Nhà hàng xóm nó cũng vẫn để âm thanh tự nhiên!!

Tối hôm đó, lại có cải lương hồ quảng, Thành mấy lần muốn bước ra cửa sổ, nhưng cuối cùng vẫn nhớ đến lời cô giáo. Má nó từ cửa sổ nói vọng vào:

- Thành, mày làm gì đấy? Cải lương hồ quảng nè mày! Hay gần chết! Cô đào ngộ ghê! Ra coi! Mậy!

Nó lắc đầu, chúi mũi vào cuốn vở, vừa vẽ vừa nói to:

- Thôi, con hỏng coi đâu. Lát con đi ngủ sớm.

Mẹ nó vẻ ngạc nhiên. Hai đứa em nhỏ tò mò chạy đến nhìn vào tờ giấy của chị. Một đứa reo to:

- A! Chị Thành vẽ cái khạp tương, tụi bây ơi!


ÁI THƠ     
S.G. 19-07-73 

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 103, ra ngày 17-8-1973)

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018

Thầy Giáo Mới


















Ngày mới sáng gieo vàng trên lá biếc
Hoa trên cành còn đẫm ướt hơi sương
Dắt xe ngoan thầy vội vã lên trường
Muôn cây lá vẫy chào trong nắng chớm

Buổi thứ nhất nên thầy ra lớp sớm
Các trò ngoan đã đầy đủ trên sân
Các em mừng thầy cũng thấy lâng lâng
Gian lớp nhỏ reo mừng niên học mới

Trong khoảnh khắc học trò đua nhau tới
Áo trong lành cặp sách cũng trinh nguyên
Ở trong trường thầy tưởng chốn thần tiên
Lòng rộn rã theo cùng viên phấn trắng

Trong cuộc sống đã đôi lần thấy đắng
Giữa chợ đời thầy như mất niềm tin
Nhưng vở bài đã thay tiếng cầu kinh
Đem hạnh phúc cho thầy bên lũ trẻ

Ngoài hiên nắng đã vang lừng tiếng sẻ
Các em vào ngồi lớp thật ngây thơ
Thầy giảng bài hy vọng cũng xanh mơ
Mong  trẻ Việt sẽ thành nhân xứng đáng

Cuộc nhân thế cơ hồ thầy đã chán
Trở về đây vui với các em ngoan
Chọn nghề thầy cũng tỷ chuyến sang ngang
Yêu lớp học như yêu nguồn sống mới.

                                                   THẬP CẨM
                                             (Ty tiểu học Long Khánh)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 110, ra ngày 7-10-1973)

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2018

Như Biển Rộng Sông Dài













TRƯỜNG CA NGỌC THÙY GIANG

Gởi Trần Ngọc Hưởng

Các em đã về đây mùa họp mặt
Trên sân trường chưa tắt những niềm vui
Đã qua rồi ba tháng hè ngây ngất
Còn âm vang đầu niên học reo cười

Thôi, hãy nhìn nhau trong ngày thứ nhất
Để tìm xem bao đứa mất đứa còn
Bởi bến bờ thì dài xa hun hút
Thầy chỉ là người đưa khách sang sông

Em cũng đừng ngạc nhiên vì lẻ bạn
Đừng khóc vùi đừng tủi phận thương thân
Nếu chẳng may tóc cài khăn tang trắng
Vì song thân vừa ngã xuống âm thầm

Em cũng đừng ngạc nhiên hay xấu hổ
Thấy cạnh em những đứa đứng chung hàng
Không cùng một màu da vàng máu đỏ
Mà mắt xanh, mũi lõ, tóc xoăn

Em hãy nghĩ dù chẳng cùng nòi giống
Nhưng cũng tim, cũng óc một con người
Chúng cũng cần đủ đầy quyền được sống
Tội tình chi hay chỉ tội nhân đời!

Em cũng đừng đặt quá nhiều câu hỏi
Hòa bình sao cha em vẫn chưa về
Thầy chỉ biết cúi đầu mà không nói
Giải đáp nào giúp em được nguôi khuây?

Em đừng buồn khi nhìn lên tường cũ
Soi lam nham từng dấu trổ vôi hồng
Bởi chiến trận không chừa nơi cư trú
Thì sá gì chỗ đào tạo công dân

Em đừng buồn khi nhìn lên mái ngói
Đổ hoang tàn bao gạch vỡ nằm kia
Bởi chiến trận không chừa nơi xưng tội
Thì sá gì khi súng thiếu người bia

Hãy điềm nhiên như là hoa cỏ dại
Xem như em chưa thấy chưa biết gì
Biển trầm luân hay sóng đời khổ ải
Biết bao lần tan tác với phân ly?

Thầy sẽ giảng em nghe bài Đức dục
Ở trang đầu cuốn sách buổi khai tâm
Bổn phận em học nằm lòng thật thuộc
Tình Việt Nam như mật ngọt, trăng rằm

(Quê hương mình hình cong như chữ S
Nối liền nhau Nam, Trung, Bắc ba miền
Không phải đến bờ Hiền Lương là hết
Nhớ suốt đời nhớ thật kỹ nghe em)

Thầy sẽ giảng em nghe bài Địa lý
Mấy danh từ như Ái Tử, Chu Lai
Không phải chỗ đó là nơi máu chảy
Nơi đồng bào ruột thịt bị phân thây

Thầy sẽ giảng em nghe bài cách trí
Thân thể người ta gồm chính ba phần
Em cũng đừng giơ tay hay thầm nghĩ
Trên chiến trường chia gấp mấy lần hơn?

Thầy sẽ giảng em nghe bài Quốc sử
Mấy vì vua chịu cống sứ chư hầu
Không phải để em cúi đầu tôi mọi
Mà là kiên cường quật khởi mai sau

Thầy sẽ giảng em nghe bài chính tả
Có đồng xanh thơm lúa mạ giao mùa
Quê dù nghèo nhưng là nơi đất Tổ
Người dù xa rồi tất cả quay về

Thầy sẽ dạy cho em bài toán cộng
Mẹ cộng cha thành biển rộng sông dài
Anh cộng em đáp số là hòa thuận
Người cộng người thân ái nặng gầy vai

Thầy sẽ dạy cho em bài Toán đố
Rằng dân em có hàng triệu tay cày
Nhơn với một vạn lòng son sắt
Thì cuối cùng hạnh phúc thuộc về ai?

Thầy sẽ dạy cho em làm bài luận
Tả quê hương ngày nắng ấm thanh bình
Đẹp tuyệt vời những cánh bồ câu trắng
Sớm mai hồng rạng rỡ mặt trời lên

Thầy sẽ dạy cho em bằng nhiệt huyết
Bằng hồn thiêng, tha thiết, một con đường
Đường Việt Nam ngày cờ bay thống nhất
Là muôn đời gầy dựng bởi TÌNH THƯƠNG?

                                              NGỌC THÙY GIANG

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 206, ra ngày 1-8-1973)

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

Những Năm Tháng Tiểu Học


Lên tám, tôi trở về Sài Gòn sống chung với gia đình. Dưới Châu Đốc, tôi đang học lớp nhì, tức lớp bốn bây giờ, học sớm một năm. Vì vậy, tôi vẫn tiếp tục theo học lớp nhì ở Sài Gòn.

Mấy ngày đầu, người nhà dẫn tôi đi tới trường và lại dắt về. Qua tới ngày thứ tư thì tôi có thể đi một mình, vì thật ra từ nhà tới trường chỉ có một đường thẳng! Được tự do, tôi vội quẹo ngay vô một con hẻm xa lạ để khám phá khu vực xung quanh trường, và bị hậu quả nhãn tiền : tôi đã lạc đường ngay lập tức! Đi vòng vèo mãi vẫn không kiếm được lối về, tôi vừa đi vừa ôm cặp vừa khóc hu hu. Khi ngang qua mấy bà cụ đang ngồi nhai trầu nói chuyện ven đường, một cụ đã hỏi tôi, y như ông bụt trong chuyện cổ tích, sao mà khóc vậy? Con bị lạc đường rồi, tôi mếu máo trả lời trong nước mắt. Vừa lúc đó có một anh khoảng mười ba, mười bốn tuổi đi qua, cụ vẫn ngồi chỗ cũ và nói với ra với anh, bé nó bị lạc đường đó, dắt nó về nhà đi, mai mốt em con đi lạc, người ta dắt em con về! Nghe xuôi tai, anh ấy bèn hỏi tôi địa chỉ. Thật buồn cười là tôi đọc vanh vách số nhà, tên đường, nhưng lại không biết đường! Bà cụ nói với tôi, thôi con đi theo ảnh đi, ảnh dắt về nhà cho! Giờ nghĩ lại mới thấy mình thật thiếu sót, không biết cảm ơn hai ân nhân đã "kíu" giúp mình bữa đó, chắc tại vì lúc đó tôi còn nhỏ quá!

Ở lớp nhì, giờ chơi học trò tụi tôi phải xếp hàng dài để chờ tới phiên uống sữa bột. Tôi chuyên môn hoặc đổ sữa xuống cống hoặc chỉ nhúng tay vào ly sữa rồi quệt vô hai bên mép để lỡ cô có tra hỏi thì tôi khỏi bị la rầy! Nghĩ lại thấy mình thật ngu và lãng phí quá!

Cũng ở lớp nhì, có lần trường phát động cuộc thi vẽ hình như để hưởng ứng cuộc tìm kiếm họa sĩ nhí toàn quốc. Ai cũng phải vẽ một bức, dù có năng khiếu, sở thích vẽ hay không. Thật tình mà nói, thêu, vẽ, và sau này khi lên trung học, toán, lý, hóa... nữa, là những môn học tôi luôn phải đứng chót lớp. Nhưng tôi lại rất mê làm họa sĩ mới chết chứ! Cứ nghĩ tới việc xách giá vẽ lên vai, tìm một khung cảnh thật đẹp, thật lãng mạn, như một cánh đồng đầy hoa, một dòng suối róc rách... gì đấy, đẹp như trong phim, rồi hí hoáy ghi lại lên tranh, vừa nghiêng đầu nghoẹo cổ ngắm nghía, lấy le với một bầy con nít cứ xúm xít chung quanh, trầm trồ khen ngợi là cũng đủ mê ly rồi! Dù sao thì tôi cũng đã cố "nặn óc" ra một bức để nộp cô, vẽ một mái tranh, vài cây dừa trĩu trái xung quanh nhà, dưới bầu trời đêm đủ trăng lưỡi liềm và những ánh sao xanh lè! Kết quả được biết trước khi công bố : Không một tiếng vang! Cuốn theo chiều gió!

Học được chừng vài tháng, đã quen bạn quen lớp, thì một hôm cô giáo nói, trò nào tám tuổi giơ tay lên. Có sao nói vậy người ơi, tôi vâng lời, chứ chẳng phải vì lý do nào khác. Bất ngờ cô nói em thu xếp tập vở xuống lớp ba học! Rồi cô chỉ đường cho tôi tới một dãy lớp nằm riêng rẽ cách trường chính của tôi chừng một trăm mét. Lũ bạn lớp nhì, tiếc bạn, xúm lại chửi tôi, sao mày ngu quá! Tôi cắp cặp ra khỏi lớp, quay lại nhìn thì thấy đám bạn lớp nhì bé nhỏ của tôi buồn bã, tiếc nuối đứng trông theo! Từ bữa đó tôi không còn gặp lại tụi nó nữa, vì khác lớp rồi! Nếu tôi không giơ tay bữa đó, thì cuộc đời tôi đã thay đổi ra sao, tôi thường hay tự hỏi như vậy!

Tôi nhớ cô giáo lớp ba của tôi tên Tuyết, rất hiền, và ở bên đây trường nếu nhìn xéo qua bên kia đường là nhà cô. Sở dĩ tôi nhớ rõ vì có lần tập làm văn tả cây chuối, cô nói trò nào chưa nhìn thấy cây chuối thì qua quan sát cây chuối nhà cô trồng! Lớp ba, tôi rất nhớ cho tới bây giờ những bài học thuộc lòng thật hay, trong số đó có nhiều bài của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải.  Tôi có thể đọc vanh vách một bài tên Mái nhà năm xưa, rồi bài Mưa Xuân...!  Bạn lớp trưởng của tôi rất xinh đẹp, tên Trang, nhà cũng gần đó. Khi lên trung học, có lần tôi tình cờ gặp lại bạn ấy ngoài đường, thấy Trang đã phát phì và chẳng còn đẹp nữa! 

Tôi cũng còn nhớ một bạn nữa cũng cùng lớp hình như tên là Minh Tâm. Một hôm tan học, Tâm rủ tôi về nhà Tâm gần đó hái khế chơi, vì ba má Tâm đã đi vắng hết. Cho tới lúc đó, tôi chưa hề trông thấy một trái khế còn nguyên cả cành lá, huống hồ gì cả một cây khế vĩ đại! Đó cũng là lần đầu tiên, và cũng là lần duy nhất tôi được leo cây hái trái! Tôi cứ mê man ngắm nghía, rồi vươn tay lựa hái những trái khế chín vàng, mọng nước, có cả cành lá thật đẹp, nhét đầy vô cặp, quên cả thời giờ. Vừa về đến cửa nhà thì tôi đã bị ba tôi dùng roi mây đánh một trận nên thân, vì tội về trễ. Cả những chùm khế xinh xắn tôi mất bao nhiêu công sức để hái cũng bị tịch thu rồi thủ tiêu đâu mất! Hôm sau, Minh Tâm lại rủ tôi về nhà hái khế! Tôi đành phải thú thật chuyện bị phạt đòn hôm trước. Tình bạn của chúng tôi phai nhạt dần. Không biết bây giờ bạn ấy đã lưu lạc phương nào! 

Ở lớp ba, tôi không nhớ có được uống sữa không, nhưng tôi nhớ như in là được ăn bánh mì! Mỗi sáng vô lớp,  tôi đều thấy hàng chục ổ bánh mì ở trên bàn cô Tuyết. Đầu giờ học cô sẽ xắt bánh mì phát cho mỗi trò một khúc. Nếu chúng tôi không muốn nhận bánh mì mỗi ngày thì có thể nhận bánh một tuần một lần nguyên ổ.

Chẳng hiểu sao, ngoại trừ những năm học trung học tôi không có chút cảm tình nào, nhưng tôi lại rất thương trường tiểu học và trường đại học của tôi, dù ở bậc tiểu học, có lẽ vì ăn chưa no lo chưa tới, tôi chẳng chịu học hành gì!

Tôi nhớ, mình thường hay nhịn ăn sáng để lấy tiền mua những cuốn truyện tranh, cỡ bằng 1/4 tờ A4, được bán gần trường, rồi mê man đọc trước giờ vào học. Con hẻm trước cổng chính của trường tụ tập rất nhiều hàng quà bánh dụ khị con nít Có chú bán nước cam chứa trong bồn thủy tinh tròn to, thả lác đác vài lát cam, chanh, phía trên treo lủng lẳng những bịch nylon nước cam kèm ống hút. Có người bán cá kiểng, trong những thau nhôm to, những chú cá vàng, cá ngũ sắc bơi lội tung tăng, giữa những nhánh rong xinh xắn. Lũ học trò nhỏ tụi tôi có quyền lựa, rồi người bán sẽ vợt cá cho vào bịch nylon, không quên kèm theo một đoạn rong xanh biếc nho nhỏ cho đẹp. Nhưng những chú cá ấy, vào tay chúng tôi, chẳng bao giờ sống được lâu! Chúng tôi chỉ còn biết chép miệng tiếc rẻ, quay sang tìm những trò tiêu khiển mới!

Mỗi khi nghĩ về những năm tháng ở tiểu học, lòng tôi lại thấy nghẹn ngào như sắp khóc, như mình  chỉ là một khán giả đang ngồi coi lại cuốn phim đời, do chính mình đóng vai chánh! Trên con đường đời mịt mờ cát bụi ấy, ngày xưa, mỗi ngày có một đứa bé tám tuổi, sáng sáng một mình cắp cặp tới ngôi trường tiểu học mà cô rất đỗi yêu mến. Khi ngang qua một building cao cả chục tầng gần nhà, một chú lính Mỹ đẹp trai, trắng trẻo, sáng sủa, phúc hậu, ăn mặc bảnh bao, làm việc ở đó, sáng nào cũng vơ vẩn đứng cùng một chỗ, như thể chờ cô bé đi ngang qua, và mỉm cười với cô một nụ cười hiền. Chắc chú ấy tiếc nhớ một thời êm đềm hoa mộng, nơi quê hương, khi chính chú cũng từng là một cậu học trò mỗi ngày tung tăng đến lớp!  Giống như hiện giờ, tôi đang hoài niệm lại quá khứ, và khi ngoảnh lại nhìn con đường bụi lầm đã qua đó với một nụ cười buồn trên môi, tôi tự hỏi, những năm tháng tiểu học của tôi, như những bông hoa xinh trên đồi (*) đã đi về đâu?

Trần Thị Phương Lan   
(Bút nhóm Hoa Nắng)   

(*) Where have all the flowers gone? Dân ca Hoa Kỳ
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>