Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Lê Như Hổ

Ngày xưa, tại làng Tiên Châu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, có một người tên Lê Như Hổ nổi tiếng về tài văn chương và nhất là ăn khỏe.
 
Gia đình tuy nghèo, nhưng song thân ông vẫn cố gắng cho con theo đòi bút nghiên. Thủa nhỏ, ông rất chăm chỉ, không bao giờ sao lãng việc học. Điểm đặc biệt là ông ăn uống rất khỏe nghĩa là mỗi bữa cơm ông ăn một nồi bẩy (đơn vị đo lường số gạo dùng để nấu cho bẩy người ăn). Được nửa năm ông phải nghỉ học để sang làng Thiện Phiến ở rể cho một nhà giầu có trong vùng gặp khi nhà ông quá túng quẫn
 
Từ khi sang bên vợ, ông không học hành gì cả, vì ai cũng tin là dù ăn khỏe đến mấy đi chăng nữa ông cũng chỉ sơi nổi một nồi năm là cùng. Bởi vậy, ăn không đủ sức, ông chẳng chịu mó tay vào việc gì. Người cha vợ thấy thế mới sang nhà thông gia phàn nàn:
 
- Ông bảo con ông là đứa chăm học, vậy mà không hiểu sao về bên tôi nó lười quá thể.
 
Thân phụ ông vội hỏi:
 
- Bác trách thì tôi biết vậy, nhưng xin hỏi thực bác nhé, mỗi bữa bác cho cháu nó ăn bao nhiêu cơm?
 
- Tôi cho nó ăn một nồi năm.
 
- Thế thì cháu nó không học được là phải. Bác tính, nghèo như tôi mà mỗi bữa cũng phải cố gắng cho nó ăn nổi bẩy... Vậy, bác thử cho nó ăn như thế xem sao.
 
Kể từ ngày được bố vợ cho ăn nồi bẩy, ông mới cầm sách học qua loa vài chữ mà thôi. Bà mẹ vợ thấy thế mới trách móc ông chồng:
 
- Gớm! Sao mà ông chọn được thằng rể khéo thế. Người ta thường nói là: "Lấy vợ xem tông, lấy chồng kén giống", đàng này ông đưa cái đồ ăn hại đó về chỉ tổ thêm bực mình.
 
- Bà đừng vội nóng. Nó ăn nhiều như thế, tất nhiên phải khỏe hơn người, rồi bà coi...
 
- Nếu nó khỏe hơn người thì ông thử sai nó xem có giỏi thì hãy ra phát cỏ hoang ba mẫu ruộng của mình ngoài đồng đi...
 
Nghe thấy thế nhưng không nói gì hết, sáng sớm hôm sau, ông Hổ lẳng lặng xách dao ra đầu làng nằm ngủ dưới gốc cây đa. Bà mẹ vợ đi chợ từ sáng cho tới xế trưa về ngang qua chỗ đó vẫn thấy ông Hổ nằm ngủ như chết mới tức mình chạy về đay nghiến chồng:
 
- Từ nay trở đi cứ thổi nhiều cơm cho thằng Hổ ăn nữa đi. Nó giả vờ cầm dao ra vỡ cỏ từ sáng sớm, vậy mà lúc tôi đi chợ về vẫn còn thấy nó nằm ngủ dưới gốc đa kia thôi.
 
Nói đoạn bà kéo tay chồng tất tả lôi ra tận nơi. Dè đâu trong lúc bà vội vã về nhà thì ông Hổ thức dậy và mới bắt đầu ra tay. Ông cầm dao lội xuống nước phát cỏ trong nửa giờ là dọn sạch sẽ ba mẫu ruộng. Cá chạy không kịp bị chết nổi lên vô số. Bởi vậy, khi hai ông bà ra đến nơi thì ruộng đã quang đãng lại còn được thêm mấy thúng cá. Lúc đó bà mẹ vợ mới tấm tắc khen sức khỏe con rể.
 
Một hôm, bà mẹ vợ sai ông đi mướn thợ để gặt lúa chiêm đã chín. Vì ruộng quá rộng nên phải cần tới ba mươi người thợ. Ông Hổ vâng lời nhưng đi loanh quanh một lát rồi trở về trình với mẹ:
 
- Thưa mẹ, con đã đi mướn nhưng họ đều bận cả, chả được người nào.
 
Ở nhà. bà mẹ vợ vẫn đinh ninh là sẽ có ba chục người thợ về ăn nên đã lo thổi một nồi ba mươi cơm với thức ăn dọn sẵn đầy đủ. Ông Hổ liền bóc ra ăn hết. bà mẹ vợ vừa giận vừa buồn cười hỏi:
 
- Mày ăn nhiều như thế có vỡ bụng ra không?
 
Ông Hổ thưa:
 
- Xin mẹ đừng giận. Mấy mẫu ruộng đó cứ để đấy, con sẽ gặt chỉ nội một ngày là xong. 
 
Sau đó ông Hổ chặt tre, chẻ lạt mang đi. Quá nửa ngày là ông đã gặt hết rồi bó lại thành bốn gánh quẩy về.
 
Từ đấy bà mẹ vợ lại càng thương hơn, hết sức nuôi nấng chàng rể ăn học. Ông Hổ rất thông minh, học đâu nhớ đó. Gặp dịp trong huyện vào đám có mở cuộc đánh vật, ông ghi tên nhưng chẳng ái dám đấu vì quá biết sức ông.
 
Năm ba mươi tuổi ông nổi tiếng về tài văn chương. Khoa Tân Sửu, ông đi thi đỗ ngay Tiến Sĩ.
 
Một bạn đồng khoa với ông là Nguyễn Thanh, trong lúc ngồi chơi hai người vui đùa hỏi nhau:
 
- Bác có thể đài thọ cơm nước cho tôi một tháng không?
 
- Xin mời bác cứ tới. Dù thế nào thì tôi cũng phải lo cho đủ.
 
Cách một tháng sau, ông Hổ cùng với một người nhà đến thăm ông Thanh nhưng không may ông này đi vắng. Ông Hổ mới nói với vợ bạn rằng:
 
- Thưa bà, tôi với ông nhà có hẹn nhau đến chơi. Nhân hôm nay có việc ngang qua đây, nên ghé vào thăm ông bà. Nếu bà có lòng thết đãi thì xin cho bọn chúng tôi vào khoảng ba mươi người một bữa cơm. 
 

Nghe thấy nói là bạn chồng tới chơi, bà Thanh vội vàng mời vào rồi kêu người thổi một nồi năm mươi cùng giết một con lợn béo và làm sáu mâm cỗ đoạn bưng lên. Ông Hổ giả cách bảo tên người nhà ra kêu những người kia vào rồi hai thầy trò cứ việc ngồi ăn. Ông Hổ ăn hết mâm này tới mâm khác. Ăn xong no nê, ông Hổ cám ơn từ biệt.
 
Khi chồng về, bà Thanh thuật lại:
 
- Hôm qua có một người tự xưng là bạn rất thân với ông tới chơi. Tôi mời lại thết đãi. Ông ta cho biết là cùng đi với ba mươi người khác nữa hiện còn đang chờ ngoài ngõ. Tôi tưởng thật mới lo làm cơm, mổ lợn, dọn cỗ mang lên. Nhưng chẳng thấy ai hết ngoài mình ông ta và tên người nhà. Ông ta ăn nhanh như gió cuốn, hết mâm này sang mâm khác. Chỉ một loáng là nồi năm mươi cơm không còn một hạt. Rõ khiếp! Không biết có phải là người hay là ma quỷ mà ăn uống ghê thế.
 
Nghe nói sức ăn như vậy, ông Thanh chợt nhớ ra người đó chính là ông Hổ nên bảo vợ:
 
- Thế thì đúng là ông bạn tôi tên Lê Như Hổ rồi. Độ nọ quả thực tôi có hẹn mời ông ấy tới chơi.
 
Năm sau ông Thanh ra thăm ông Hổ để xin lỗi. Ông Hổ cũng làm cơm thết lại. Ông sai người mổ hai con lợn béo và thổi bốn mâm sôi bưng lên thết ông Thanh. Tuy cũng là người ăn khỏe, nhưng ông Thanh chỉ ăn hết 1 góc con lợn và già nửa phần sôi, trong khi ông Hổ ăn hết phần của mình lại chèo sang mâm của ông Thanh. Ông Thanh cả sợ:
 
- Ngày xưa ai cũng biết làng Mộ Trạch có ông Lê Nại là ăn khỏe mà chỉ sơi hết mười tám bát cơm và chỉ uống mười hai bát canh trong một bữa. Giờ đây nếu đem so sánh với bác thì ông ta còn thua xa. Cả cơ nghiệp của tôi chắc chỉ đủ thết bác dăm bữa là cùng.
 
Khi ông Hổ làm quan tới chức Tả thị lang, vâng lệnh vua sai đi sứ. Sang tới Trung Hoa, mọi người nghe thấy nói ông là người ăn khỏe đến kinh ngạc. Người Tầu dọn một bữa cỗ mười tám tầng rồi mời ông vào ăn. Ông Hổ ăn hết tầng này tới tầng kia. Khi tới tầng thứ mười tám, ông thấy có một cái đầu người (thực ra đó chỉ là đầu một loại cá rất giống với đầu người) ông Hổ cầm đũa chọc vào hai mắt con cá rồi giơ cao lên cho mọi người cùng thấy rồi bảo rằng:
 
- Tao là học trò, xưa nay chưa nếm mùi thịt đầu người như thế nào, nay Vua Tầu cho tao ăn thứ đầu người Tầu, thật là vinh dự. Chúng mày mau mang con dao lại đây cho tao.
 
Mọi người đứng chung quanh thấy thế đều bịt mắt hết. Vua Tầu biết ông không sợ lại còn nhạo báng bèn sai người bưng đi chỗ khác.
 
Một lần, vua Tầu thử tài quan sát của ông mới bịt mắt ông lại, đoạn dẫn đi chỗ khác ba ngày mới đưa trở về chỗ cũ rồi hỏi xem ông đang đứng ở đâu, ông trả lời ngay:
 
- Đây là chỗ tôi ngồi ăn yến hôm nọ.
 
Thấy ông trả lời đúng, vua Tầu tha không bịt mắt nữa và phục ông là người có trí nhớ tốt.
 
Một lần khác nữa, ông đã chứng tỏ tài suy đoán của mình. Lúc bấy giờ bên Tầu trời làm hạn hán ba bốn tháng hơn mà không có mưa. Nhân dịp các sứ tới triều cống, vua Tầu hạ sớ sai các sứ làm lễ cầu đảo. Ông Hổ biết là trời chưa mưa nên vội quỳ xuống tâu: 
 
- Tâu lạy đức Hoàng Đế, nước chúng tôi là nước nhỏ nên xin để các sứ thần kia cầu trước.
 
Vua y lời. Lần lượt các vị sứ thần làm mọi cách cũng không thấy có một giọt nước nào. Nhân dịp này ông Hổ bịa ra chuyện là gia nhân của ông có người biết hô phong hoán vũ, nhưng xin để lui lại vài bữa đã. Kỳ thực ông tìm kế hoãn binh để đi xem các thứ cây cỏ, nếu thấy rễ cây si hay cỏ gà mọc trắng nõn là biết trời sắp có mưa. Sau đó ông mới xin bày đàn ra cúng. Quả nhiên ngay hôm sau mưa như trút nước suốt mấy ngày đêm. Vua quan nước Tầu đều khen ông là người có lòng chân thành đến nỗi cảm kích được cả trời đất bèn phong cho ông làm "Lưỡng quốc thượng thư". Nhân thấy ông có tài ứng đáp Vua Tầu bèn giữ ông lại để dạy các hoàng tử học.
 
Trong lúc dạy, bất cứ hoàng tử nào có lỗi đều bị ông lấy roi đánh để sửa trị, vì ông cho rằng "Tiên học lễ, hậu học văn". Bà hoàng hậu thấy các con bị đòn mãi mới xin chồng chọn một vị quan khác. Nhờ đó ông được trở về nước Nam. Vua ta bèn phong cho ông là Thượng thư.
 
Ông Lê Như Hổ sống lâu tới bẩy mươi mốt tuổi mới mất. Khi ông mất triều đình ban cho ông một cái áo quan bằng đồng. Nước Tầu cũng cử người sang đưa đám.
 
Ngày nay lăng của ông còn trong làng Tiên Châu.
 
 
ĐẶNG HOÀNG       
Sao lục             
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 18, ra ngày 12-12-1971) 
 
 

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

Cỏ May


 
 
 
 
 
 
 
 
Buổi chiều trên đồi cao
Con suối chảy ngọt ngào
Và cơn mưa dậy vội
Mục tử ngưng đồng dao

Và chiều đó mưa bay
Thẫn thờ gió hoen mây
Em ngồi bên cửa sổ
Nhìn những cành cỏ may

Sáng mai có nắng tiên
Dịu như tuổi ngoan hiền
Run môi em khẽ hát
Dại khờ chút cô miên

Em đi trên đồi cao
Có nắng rọi hồng hào
Em đưa tay luyến ái
Đồi cỏ may thương sao

Bây giờ là mùa đông
Rưng rưng cánh mưa hồng
Em thì thầm gọi nhỏ
Đồi cỏ may buồn không?...

                       VŨ HOÀNG VIÊN
                   (Bút nhóm HOA SA MẠC)

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 215, ra ngày 15-12-1973)

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025

Cá Sấu


Thỉnh thoảng có dịp đi xem một số phim Tarzan chúng ta lại được thấy cảnh anh chàng người rừng ra tay đấu nhau với cá sấu giữa giòng sông, và rồi cuối cùng đâm chết con vật dữ dằn này, khiến khán giả hồi hộp, thích thú, khâm phục. Tất nhiên đầy là màn xảo thuật cốt đề cao sức khỏe phi thường nơi vai chính trong chuyện mà thôi, chứ thực ra ít có ai dám đương đầu với cá sấu - trừ những trường hợp bất ngờ bắt buộc đã đành - vì ngay cả loại thú lớn như hổ, báo, sư tử, voi v.v... cũng còn e dè, kiêng nể đến nỗi lắm phen phải bỏ chạy thục mạng thì đủ biết loài này dễ sợ như thế nào.
 
Là con vật chịu lạnh rất kém, cá sấu chỉ sống thật đông đảo tại vùng khí hậu ấm, gần xích đạo, nơi các eo biển, phá, vũng, lạch, khe suối, sông, hồ, đầm lầy trong rừng núi thâm u hay miền hoang dã ở nhiều quốc gia Trung, Nam Mỹ, Phi và Á Châu.
 
Thuộc loại bò sát sống cả trên cạn lẫn dưới nước, cá sấu mắt nhỏ, lỗ mũi bé tí xíu, đầu dẹp hay dầy, mõm dài hoặc ngắn tùy loại. Trung bình, toàn thân chúng đo được từ thước tám tới hai thước tư, do lớp da gồm những vẩy kết lại với nhau, kèm theo nhiều hàng gai cứng, mọc cao hẳn lên chạy dọc từ gáy đến tận chót đuôi. Khi bơi, cá sấu luôn luôn chìm hẳn mình dưới nước, ngoại trừ cặp mắt lơ láo quan sát cảnh vật chung quanh cũng như lỗ mũi để thở, cùng chuỗi gai lởm chởm trên lưng là nhô lên mà thôi, riêng bên cạnh tai có một lớp màng mỏng tự động che kín nhằm ngăn chặn nước khỏi lọt vào. Nhiều người cứ tưởng cá sấu bơi bằng chân, nhưng thực sự không phải như vậy đâu. Chính chiếc đuôi to lớn, rất khỏe lại dài gần với thân mình, được coi chẳng những là mái chèo đưa đẩy chúng lướt đi nhẹ nhàng, nhanh hay chậm, rẽ phải hoặc trái bằng cách quẫy sang hai bên, mà còn là vũ khí tự vệ và phương tiện kiếm ăn thật hữu hiệu. Nhờ bốn chân ngắn, cứng cáp với hai mươi móng nhọn, sắc bén, cá sấu có thể từ dưới nước phóng lên bở để đuổi theo con mồi lẹ như chớp, rồi khi tới gần, chúng xoay ngang đồng thời quất trọn chiếc đuôi vào đối thủ một đòn vũ bão khiến "nạn nhân" quỵ ngay lập tức. Bởi thế, người ta thường khuyên bất cứ ai lỡ gặp cá sấu, thì dù chúng đang tức giận vì đói hay yên lặng nằm nghỉ, cũng phải cẩn thận đề phòng. Chớ có dại đứng khơi khơi ngắm nhìn, kẻo có ngày bị chúng quất cho rập ngực, gãy xương sống, xương sườn rồi mất xác như chơi, vì cá sấu có nhiều cách kiếm ăn lắm.
 
Với thói quen chui rúc trong bụi cây hay dầm mình dưới khe nước đục kiên nhẫn rình mồi, toàn thân cá sấu lúc nầy trông chẳng khác gì khúc gỗ hay rễ cây lớn vất bỏ ngoài vũng bùn, vì màu sắc trên lưng chúng có thể đen sậm hay nâu xám, ngoại trừ dưới bụng lại trắng vàng. Do đó, nếu bất cứ con vật nào vô tình nhè leo ngay lên thân mình chúng mà đứng, hoặc chim chóc từ đâu sà tới đậu xuống cành lá trước mặt, là chỉ thoáng một cái, cá sấu đã quay ngoắt trở lại, dùng đuôi "đốn ngã", hay chồm lên cao "đớp" trúng mục tiêu, và xem chừng cầm chắc phần thắng. Nếu thú rừng - ngay cả thổ dân - lò mò lần xuống uống nước, rửa tay gần kề, cá sấu sẽ bất thần lao tới vun vút tấn công liền. Với lối "hành  nghề" điêu luyện như vậy, ít khi chúng chịu nếm mùi thất bại. Bắt được con mồi rồi, cá sấu ngoạm chặt giữa hai hàm cứng, bao gồm trên dưới tám chục chiếc răng nhọn hoắt, và nếu không nuốt trọn ngay được, chúng sẽ nhá nhá cho rập nát lung tung với mục đích gây thêm thương tích làm "nạn nhân" tê liệt sức đề kháng, bằng không thì "a lê hấp", xé nát từng mảnh hoặc lôi tuột ra giữa giòng nước dìm cho chết, sau đó mới ăn. No nê căng bụng đâu vào đấy, cá sấu nằm nghỉ, mõm há hốc hàng giờ để chờ một loài chim nhỏ bé bay tới chui tọt vào họng làm công tác "xỉa răng" cho mình, nghĩa là các chú chim này ăn hết các miếng thịt dắt trong kẽ răng cá sấu xong, đoạn cất cánh bay đi. Sau khi đã sạch sẽ tươm tất, cá sấu mới ngậm mõm lại. Giờ đây trông dáng điệu anh chàng có vẻ hiền từ, phúc hậu ra phết, nhưng ai mà tin được, phải không các bạn?
 
Như trên đã trình bày, cá sấu ăn bất cứ con vật gì, từ thứ lắt nhắt như tôm, cua, cá, ba ba, ếch, cóc, nhái, chim cho tới thỏ, sóc, chuột xạ và ngay cả hươu, nai, hổ, báo, sư tử v.v... chúng cũng sơi tuốt luốt. Người ta từng tìm thấy nhiều khúc xương sư tử cạnh giòng suối ở một khu rừng già có lắm cá sấu bên Phi Châu. Riêng với loài người, tuy cá sấu kiêng nể thật đấy nhưng khi túng quá chúng cũng chẳng tha, vì hàng năm con số nạn nhân nhất là trẻ em ở Nam Mỹ, Phi Châu và Ấn Độ bị cá sấu ăn thịt, hoặc tha đi mất hút khá nhiều.
 
Bạn có biết sức mạnh hai hàm răng cá sấu khi cắn đứt con mồi ra sao không? Sơ sơ chỉ có bốn tấn thôi, ngán chưa?
 
Cá sấu thích sống từng đàn từ mươi mười lăm con trở lên. Đến thời kỳ sinh sản, cá sấu cái lo đào, bới đất bên bờ sông thành các hang, hố đoạn cất giấu vào khoảng ba đến sáu chục trứng vừa đẻ - màu trắng xám, nhưng nhỉnh hơn trứng gà - rồi lấp bùn, đất hoặc cát và tha lá cây về phủ lên trên để che đậy. Hai tháng sau, nhờ ánh nắng mặt trời cùng hơi nóng trong lòng đất ấp ủ, trứng mới nở. Trước đó, cá sấu mẹ luôn luôn nghe ngóng và chờ đợi những tiếng "ho" khác thường từ đám trứng phát ra, nhờ vậy "mụ ta" biết đã tới lúc phải dọn dẹp các chướng ngại vật cho "lũ nhóc tì" chọc thủng lớp vỏ cứng bò ra ngoài. Ngay khi mới nở, cá sấu con chỉ dài chừng hai tấc và bơi được ngay. Do công lao bà mẹ chăm sóc bú mớm cả năm trời, chúng lớn như thổi, nghĩa là dài ngót một thước.
 
Để phân biệt hai loại cá sấu, người ta căn cứ vào hình dáng và địa điểm sinh sống.
 
a) - Cá sấu mõm dẹt lại dài chuyên sống vùng nước mặn nhưng cũng có thể ở cả nước ngọt nữa. Điểm đặc biệt là về mùa xuân, chúng hay rít lên những âm thanh kỳ lạ để mời gọi con cái tới gieo giống, vì thế thợ săn dễ tìm ra địa điểm trú ngụ. Loại này thường dài từ thước rưỡi tới gần năm thước và ở Mã Đảo (Madagascar), có con dài chín thước hơn.
 
b) - Cá sấu mõm dầy và ngắn chỉ sống ở nước ngọt và khác hẳn với loại trên, hai mõm ngậm chặt, hai hàm đều có mép che kín tất cả răng lợi. Trung bình nó dài từ hai tới sáu thước.
 
Xưa kia người Ai Cập coi cá sấu là con vật linh thiêng nên được dùng để điều chế thuốc ướp xác. Ngày nay, thợ săn giết hại cá sấu bằng lao, tên tẩm thuốc độc hoặc súng bắn hạ vì các tuyến xạ hương trong mình cá sấu dành làm nước hoa, mỡ của nó để chạy máy, nhất là bộ da quý giá bán cho các nhà làm giầy, dép, thắt lưng, ví, bao kính, dây đồng hồ v.v...
 
Cá sấu chỉ sống trong vòng ba mươi năm thôi.
 
 
ĐẶNG HOÀNG       
(sưu tầm)            
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 68, ra ngày 10-12-1972)
 

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

Góc Phố Quen Mùa Đông

 

 

 

 

 

 

Góc phố quen mùa đông

Bỗng chiều nay tưng bừng

Nhạc giáng sinh rộn rã

Vọng về tiếng chuông ngân


Góc phố quen mùa đông

Đã đến mùa Noël

Đèn lung linh chớp tắt

Soi ngõ vắng không tên


Góc phố quen mùa đông

Giữa khung trời đêm vắng

Những ánh sao lóng lánh

Như trái châu cây thông


Qua cửa hiệu đầu đường

Sau lớp cửa bóng loáng

Bánh thơm lừng bắt choáng

Mùi kem, bơ, rượu nồng


Góc phố quen mùa đông

Giờ trang hoàng lộng lẫy

Giấy trang kim bóng bẩy

Tô điểm cành cây thông


Góc phố quen mùa đông

Chào đón đêm giáng sinh

Lũ trẻ nôn nao nhất:

Đợi quà ông Noël...

                       Thơ Thơ
            (Bút nhóm Hoa Nắng)

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2025

Buổi Chiều Ở Bãi Biển


Buổi chiều mặt trời sắp sửa đi ngủ thì bầu trời mang một khuôn mặt hồng hào và êm dịu như một bản nhạc cổ điển mà em vẫn nghe vào buổi tối. Ở trong nhà em, những ngọn đèn màu vàng đã rủ nhau thức giấc, tia nhìn nóng nảy của chúng khiến em cảm thấy nhức mắt và muốn chạy trốn. Một mình em lững thững ra vườn để được ngắm nhìn vẻ tàn tạ của hoàng hôn và để được những luồng gió biển chạy vào trong tóc. Khu vườn nhà em bây giờ trông có vẻ buồn bã quá. Những chiếc lá cây trong vườn đã chuyển màu xanh thẫm và những bông hoa thì ủ rũ không mỉm cười đòi "bắt bồ" với em như vào lúc sáng sớm nữa. Tất cả đều mang một vẻ buồn ngủ và trên khuôn mặt hình như còn lộ vẻ luyến tiếc một buổi chiều thật đẹp ở miền biển. Từ khu vườn em đi dần ra bãi biển, những gót chân của em in dài trên bãi cát mà không sợ bị ai xóa nhòa hết. Vì giờ này mọi người đều không thích ra biển đâu. Họ còn bận ngôi xung quanh một chiếc bàn tròn trong khu vườn để kể cho nhau nghe những điều vui buồn trong một ngày ở bãi biển. Cũng có người mơ mộng lắm cơ. Họ không nói chuyện mà chỉ ngồi im, đôi mắt thì xa xăm nhìn lên bầu trời. Em chắc rằng họ đang nghĩ dến một người thân yêu nào đó ở phương trời xa xôi. Chắc chắn là như vậy rồi vì em thấy những người ấy đang mỉm cười. Giống như em, khi nghĩ đến những người thân yêu em cũng hay mỉm cười và đôi mắt xa xăm nữa. Bãi biển bây giờ vắng lặng. Chỉ có gió, em và những con dã tràng nhỏ xíu. Tụi nó chạy lăng xăng trên bãi cát khiến em cảm thấy nhớ những đứa em bé bỏng của em ở nhà quá. Những đứa em của em cũng thường chạy đùa lăng xăng trên cát như những con dã tràng vậy. À em quên, ở bãi biển còn có sóng nữa chứ. Ban nãy em quên kể đến nó nên bây giờ sóng cứ chạy vào bíu chặt lấy chân em hoài. Như muốn bảo "hãy để ý đến tôi với nhé!"
 
Em ngồi trên bãi cát để nhìn ra khơi. Biển màu xanh. Mây ở trên trời cũng xanh xanh nữa. "Chắc mây và biển nó là chị em với nhau hay sao mà thường mặc áo có màu giống nhau như thế?" Đó là câu hỏi mà em Liên của em thường nhắc đến khi hai đứa em đến thăm miền biển. Bây giờ cứ nhìn màu xanh ấy mà em thấy nhớ nhà, nhớ những người thân yêu đang sống ở thành phố. Bởi vì màu xanh khiến em nghĩ đến những lá thư tha thiết và thân yêu của những người đó gửi đến cho em vào mỗi buổi sáng. Từng làn sóng ở ngoài khơi tràn vào bờ và bao bọc lấy bàn chân của em. Sóng muốn rủ em ra ngoài kia, có nhiều gió mát hơn nhưng em không thích. Bây giờ em chỉ muốn ngồi im một chút để nghĩ đến những người thân yêu. Em miên man nghĩ đến mái tóc đang xanh như một rừng cây bỗng lấm tấm những điểm trắng của bố, đến nụ cười hiền dịu như một ngọn nến của mẹ và những khuôn mặt láu lỉnh, nghịch ngợm như làn sóng của những đứa em ở nhà. Tất cả những hình ảnh đó em đều đặt tên là "tình thương", vì nó đã khiến cho lòng em cảm thấy êm dịu mỗi khi nghĩ đến. Nhưng một đôi khi "tình thương" cũng khiến em cảm thấy buồn bã nữa. Đó là khi em nghĩ rằng mái tóc của bố sẽ càng ngày càng bạc trắng, nụ cười của mẹ sẽ ngày càng yếu ớt như ngọn nến nhỏ tàn dần và những khuôn mặt láu lỉnh của các em em sẽ có ngày phải cau lại vì những buồn bực, chán nản chưa từng có trong chuỗi ngày thơ ấu. Ôi! Có gì buồn hơn nữa hay không? Khi những hình ảnh đó cứ như những nốt nhạc buồn ẩn nấp trong trái tim em và thỉnh thoảng lại rung nhẹ lên khiến cho trái tim em phải se sắt? Những lúc chợt nghe thấy những nốt nhạc buồn ấy em chỉ còn muốn khóc và nhắm mắt lại để mà ước mơ mà thôi. Vì ước mơ nó là người rất trung thành của em. Những lúc em buồn thì ước mơ hay tìm đến. Nó nhẹ nhàng dỗ dành và ngăn cản thật dịu dàng để những giọt nước mắt của em chỉ se sẽ dâng lên khóe mắt như chiếc hồ nhỏ chứa một ít nước mà không bị tràn ra ngoài một chút nào cả. Những lúc như vậy ước mơ thường thì thầm kể cho em nghe một câu chuyện thần tiên. Ở trong đó có rất nhiều hình ảnh vĩnh cửu làm cho em sung sướng. Đó là một rừng cây cứ xanh mãi, một ngọn nến không bao giờ tàn lụi theo thời gian và cả những  làn sóng chỉ biết đùa nghịch vui vẻ như một đàn bươm bướm mà không bao giờ phải trôi một cách lặng lẽ cả. Em đã cám ơn ước mơ. Vì câu chuyện thần tiên của ước mơ đã khiến em được vui vẻ. Ước mơ đã bảo với em là mái tóc của bố, nụ cười của mẹ và nét vui vẻ của các em em đều giống như những hình ảnh trong câu chuyện thần tiên mà ước mơ đã kể. Nhưng... buồn làm sao! Khi ước mơ bỏ em đi rồi thì em chỉ còn biết buồn bã và khóc mà thôi. Bởi vì em biết không bao giờ, không bao giờ mái tóc của bố, nụ cười của mẹ và nét vui vẻ của các em em có thể vĩnh cửu như những hình ảnh của ước mơ được...
 
Buổi chiều tàn dần. Những tia nắng màu hồng cuối cùng của mặt trời đã dần dần biến mất. Ông trời đã thổi xong nồi cơm chiều và sửa soạn tắt bếp để dùng bữa cơm tối. Bây giờ em phải trở về nhà thôi. Biển ở đằng sau lưng em. Gió và sóng cũng ở đằng sau, chúng tiễn chân em một quãng ngắn và hẹn hò: "chiều mai nhé!!!..."
 
 
DAISY       
 
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 56, ra ngày 1-11-1966)
 

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2025

Còn Gì Đẹp Hơn Quê Hương Ta


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tặng Bích Thy (T.V)
 
Trời bỗng đẹp trên đường quê ngập nắng
Nước reo mừng hy vọng ngát xanh sông
Vững niềm tin mạch sống lớn trên đồng
Muôn sóng lúa rải vàng thơm đất mới
 
Từ muôn nẻo sóng ngoan về phơi phới
Chở tình thương gieo rắc khắp thôn nhà 
Góp phù sa nuôi dưỡng đất ông cha
Thêm sức sống cho bao người chất phác
 
Dân rộn rã rải thuyền đông biển mát
Cá tôm hiền nhóm hội lưới xôn xao
Chợ vừa khai mở rộng cánh tay chào
Xe hớn hở ra vào nươm nướp khách
 
Cây chĩu nặng trái lành in bóng lạch
Chim thanh bình nhí nhảnh hót thương yêu
Trời trong veo lơ lửng mấy con diều
Em bé nhẩy tim hồng reo hạnh phúc
 
Ngôi trường nhỏ mỗi ngày thêm đông đúc
Tiếng đọc bài lảnh lót khắp môi xinh
Các em ngoan mê mẩn sách thơm tình
Chăm gắng học dõi gương hùng lịch sử
 
Chim dân tộc thả tin mừng khắp xứ
Ngày quê hương trỗi dậy phất cao cờ
Bà mẹ già đôi mắt mở hiền mơ
Ra trước cửa đón chờ con trở lại
 
Khói xưởng máy chẳng còn nghe ái ngại
Quyện niềm tin cao mãi tận mây xanh
Vườn thêm hoa cây cỏ hát yên lành
Thơ mộng quá quê hương mình bất diệt.
 
                                                   THẬP CẨM
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 115, ra ngày 30-11-1973)
 

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

Jenner và Phương Pháp Chủng Đậu


Bệnh đậu mùa gây nên bởi một loại cực vi khuẩn hình hộp, phát ra khắp ngoài da tạo thành những nhọt có mủ. Bệnh đậu mùa truyền nhiễm, làm hại không riêng gì trẻ em mà cả người lớn và người già đều có thể chết vì bệnh này. Có hai thể bệnh:
 
- THỂ BỆNH NẶNG : nhọt mọc ở cả phổi, gan ruột ; khi nhọt bắt đầu vỡ mủ, cơn sốt nổi lên kịch liệt, người bệnh bị trúng độc, ngạt thở rồi chết.
 
- THỂ BỆNH NHẸ : đến ngày thứ 19, người bệnh bớt dần và nhọt bắt đầu vỡ mủ, dẹp đi, đóng vảy rồi vài ngày sau, vảy bóng dần để lộ ra nhiều vết sẹo.
 
Ngày nay, đối với chúng ta, bệnh đậu mùa không còn đáng sợ ; nhưng, cách non một thế kỷ trước, chứng bệnh truyền nhiễm này đã gây nên những thảm trạng kinh khủng. Đa số bệnh nhân đều chết, một số ít thoát nạn thì lại mang chứng tích trên khuôn mặt đầy sẹo, rỗ chằng rỗ chịt.
 
Hồi thế kỷ thứ XVI, ở Âu Châu có 6 trận dịch đậu mùa lớn. Mỗi năm, hơn năm trăm ngàn người chết vì chứng bệnh quái ác này. Chỉ cần đụng chạm vào quần áo hoặc tay chân của người mắc bệnh là bị truyền nhiễm tức thì.
 
Tuy nhiên, từ thời xa xưa, người ta cũng đã từng nhận xét rằng, một người sau khi may mắn lành khỏi chứng bệnh hiểm nghèo này sẽ không bao giờ mắc lại nữa. Người đó đã có tính miễn nhiễm trong cơ thể. Và người ta nghĩ rằng có lẽ những người may mắn thoát chết là những người chỉ mắc một loại bệnh đậu mùa nhẹ. Như vậy chỉ cần để cho nhiễm dịch bởi những "con bệnh nhẹ" ấy là chắc chắn suốt đời chẳng lo mắc bệnh đậu mùa nữa. Chính người Trung Hoa, đầu tiên, từ thế kỷ thứ 6 đã áp dụng biện pháp nhiễm dịch này. Họ cho trẻ con mặc quần áo của những người mắc bệnh đậu mùa nhẹ. Phương pháp này truyền bá sang Âu Châu và được thực hành nhiều nhất hồi đầu thế kỷ thứ XVIII. Một vị y sĩ danh tiếng người Ý, ông Antonio Vallisneri đã từng viết, năm 1726:
 
"Người ta mua đậu mùa ở khắp xứ Lombardie ; với một đồng quatrain (đơn vị tiền tệ thời bấy giờ) trẻ em có thể sờ tay một người bệnh và như vậy sẽ được miễn nhiễm suốt đời"
 
Về sau, các vị y sĩ đích thân đảm nhiệm công tác "cấy đậu" cho dân chúng bằng chính chất mủ lấy trong các mụn nhọt của những người đang mắc bệnh đậu mùa. Thoạt đầu, phương pháp này được mọi người hưởng ứng, nhưng càng ngày càng tỏ ra vô hiệu : trên 300 người, ít nhất có 4 người chết. Những người khác không khỏi hoàn toàn ; tinh độc còn trong máu, bệnh đậu mùa tái phát và bệnh nhân chết.
 
Mãi đến cuối thế kỷ 18, Edouard Jenner, một y sĩ hương thôn ở một làng nọ bên Anh Cát Lợi, được các nông dân cho biết nhiều người trong bọn họ đã mắc bệnh đậu mùa và đã khỏi chỉ trong vòng vài ngày. Họ còn xác nhận là đã lây bệnh từ những con cái của họ. Jenner để tâm nghiên cứu và khám phá rằng bò cái có thể mắc một bệnh đậu tương tự như bệnh đậu mùa của người. Bệnh "đậu bò" này cũng phát hiện ra ngoài da con vật những nhọt nhỏ đầy mủ. Sau nhiều lần quan sát, ông nhận xét rằng những nông dân lây bệnh "đậu bò" chỉ mắc bệnh rất nhẹ và các nốt đậu không để lại sẹo. Không còn nghi ngờ gì nữa : quả thực chứng bệnh "đậu bò" không làm chết người. Nhưng không hiểu một khi đã nhiễm bệnh "đậu bò", người ta có thể được miễn nhiễm khỏi bệnh "đậu mùa" không?
 
Edouard Jenner bèn thực hiện một thí nghiệm táo bạo ngày 14-5-1796. Ông chủng vào cánh tay một đứa bé nhà quê chất mủ lấy trong mụn đậu của bò cái, sau vài ngày ông chủng tiếp cho nó chất mủ đậu mùa của người. Jenner hồi hộp và lo sợ chờ đợi kết quả. Không biết cuộc thí nghiệm liều li4ng chảu ông có làm thiệt mạng đứa trẻ không? May mắn thay, cậu bé không những không phát bệnh mà lại được miễn nhiễm luôn khỏi bệnh đậu mùa nữa.
 

Vấn đề đã sáng tỏ : Chủng "đậu bò" cho người, có thể phòng ngừa cho người thoát khỏi mắc bệnh "đậu mùa" được.
 
Chứng bệnh nguy hiểm và truyền nhiễm đã bị đánh bại. Từ đó về sau, phương pháp "trực tiếp nhiễm dịch" được thay thế bằng phương pháp "chủng đậu" của y sĩ Jenner. Phương pháp này truyền bá rất mau lẹ trên thế giới. Chính Hoàng đế Nã Phá Luân Đệ I, khi được biết kết quả của phát minh lớn lao này, đã cho chủng đậu cho chính Hoàng Nam của ngài và ra lệnh thiết lập 26 trung tâm chủng ngừa đậu mùa trong toàn quốc.
 
Năm 1800, quận công De La Roche foucault Liancourt phổ biến phương pháp này vào nước Pháp. Năm 1801 ở Luân Đôn, hơn 10.000 người được chủng đâu. Năm 1903, Vua xứ Tây Ban Nha ra lệnh cưỡng bách chủng đậu cho dân chúng.
 
CHẾ THUỐC CHỦNG ĐẬU NHƯ THẾ NÀO?
 
Bây giờ các em nên biết qua phương thức điều chế thuốc chủng, cách chủng và công hiệu của sự chủng ngừa bệnh đậu mùa như thế nào.
 
Muốn có thuốc chủng, người ta cạo sạch lông sườn một con bê lành mạnh, rồi rạch nhẹ vào da hàng trăm nhát nhỏ để bôi mủ đậu bò vào đó. Bốn ngày sau, các nhọt mọc lên rồi mưng mủ. Người ta cạo lấy mủ và vảy nghiền nhỏ ra, thêm glycerol vào để vi khuẩn khác không sinh sản được. Đoạn cho nước ấy vào ống thủy tinh đã tiệt trùng trước, hàn cẩn thận để thuốc chủng khỏi hỏng.
 
Trước khi chủng phải sát trùng da cánh tay hay đùi. Dùng một ngòi chủng đặc biệt, lấy một ít thuốc vào ngòi rồi khía một vài nhát nhẹ vào da cho khỏi chảy máu. Chủng xong mà đậu lên thì thấy nhọt mọc, mưng mủ rồi đóng vảy. 21 ngày sau, vảy bong để lại vết sẹo trắng.
 
Chủng được 8 ngày, cơ thể mới có tính miễn nhiễm, có thể lâu tới 10 năm.
 
Tới bán thế kỷ thứ 19, việc chủng đậu bị bắt buộc thi hành khắp các xứ văn minh trên thế giới.
 
Các em thiếu nhi thân mến.
 
Đã đọc qua "lịch sử" của phương pháp chủng đậu, hãy cùng nhân loại nhớ ơn cha đẻ ra phương pháp này: Y sĩ Edouard Jennr (1749-1823) người Anh Cát Lợi.
 
 
Giáo Sư NGÔ HƯNG ĐAN      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 16, ra ngày 29-11-1971)
 
  

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025

Hình Như Mùa Đông Đã Về

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Hình như mùa đông đã về 
Mưa lất phất bay ngoài phố
Đèn đường võ vàng cuối ngõ
Sương mù nhẹ từng hơi thở

Hình như mùa đông về rồi
Từng cơn rét ngọt tinh khôi
Lá úa rã rời từng cánh
Điếu thuốc nghe đắng đầu môi

Hình như mùa đông vừa sang
Nên lòng chợt nghe bàng hoàng
Giáo đường chiều buông chầm chậm
Tiếng chuông ngân trong hôn hoàng

Hình như mùa đông đã về 
Gót chân ai trên gác nhỏ
Đâu đây thoảng hương dạ lý
Nhớ hoa cài mái tóc thề

Hình như mùa đông lại đến
Có chàng thi sĩ xao xuyến
Viết vội vàng vào tập thơ
Một câu chuyện tình vu vơ

Hình như mùa đông lại sang
Có chàng nghệ sĩ phong sương
Áo bạc màu trên phố vắng
Nghe gió đông sầu mênh mang...

                         Trần Thị Phương Lan 
                         (Bút nhóm Hoa Nắng)


Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2025

Vụ Đắm Tàu Birkenhead


Những lúc gặp nguy hiểm trên biển cả, các nhà hàng hải Anh Cát Lợi thường nhủ thầm với nhau: "Hãy nhớ lấy vụ Birkenhead!" Họ biết được câu chuyện dũng cảm này khi con tàu chở lính danh tiếng Birkenhead gặp nạn vào năm 1852. Chuyện Birkenhead đã trấn an họ trong những lúc lo âu và thường giúp họ biết cách tự chủ để thoát hiểm. Cũng có lúc nó đã đưa họ đến cái chết thật anh dũng.
 
Người ta còn nhớ, vào ngày 28-3-1954, một cuộc cấp cứu vĩ đại trong lịch sử hàng hải đã giúp hàng trăm người thoát cảnh chết chóc. Trước 7 giờ sáng hôm đó, con tầu chở lính Impire Windrush của Anh Cát Lợi đang lướt sóng trong Địa Trung Hải cách bờ bể Phi Châu 50 dặm, hành khách trên tàu đã thình lình thấy con tàu rùng mạnh và chồm tới. Khói đen bắt đầu bốc lên, một âm thanh rùng rợn phát ra từ lòng tầu.
 
Cháy trên biển
 
Một thủy thủ ở phía dưới hấp tấp chạy lên boong tầu, tóc tai, lông mi, lông mày mất sạch, mặt mũi đen xì, một bên má loét ra dễ sợ, anh ta hét: "Cháy! Phòng chứa nồi súp de bị nổ!" Nói đoạn, anh ta lăn đùng ra chết. Ba thủy thủ khác cũng đã chết trong phòng nầy. Lửa tràn lan dữ dội ; chỉ trong ít phút, phần giữa con tầu đã biến thành một lò lửa vĩ đại.
 
Các sĩ quan và thủy thủ đoàn đã hành động mau lẹ. Họ cố dập tắt ngọn lửa, vài sĩ quan chạy vội lên boong để trấn an hành khách. Sau khi thấy không còn ngăn chặn nổi ngọn lửa nữa, Đại úy William Wilson ra lệnh bỏ tầu. Mọi người đều biết cái chết đã kề bên vì một số thuyền cấp cứu đã bị thiêu rụi mà trên tầu lại đông người. Nó chở những viên chức phục vụ tại Viễn Đông nay hoặc đã mãn nhiệm kỳ, hoặc được lệnh về quê nghỉ phép. Nhiều người mang theo cả gia đình. Có tất cả 1515 người trên tầu, trong số đó có 125 đàn bà, 87 trẻ em và 17 người đau ốm. Vậy mà chỉ có 12 chiếc thuyền cấp cứu, mỗi chiếc chỉ có thể chở được từ 49 đến 100 người. Rõ ràng là thiếu chỗ, nhưng không ai tỏ ra khiếp sợ và không một người nào tranh xuống thuyền.
 
Với giọng bình tĩnh qua loa phóng thanh, Đại tá chỉ huy đoàn quân ở trên tầu ra lệnh cho binh sĩ của ông áp dụng "kỷ luật Birkenhead". Theo kỷ luật này, tất cả đàn ông trên tầu phải lên boong xếp hàng ngay ngắn, không ai được nhúc nhích cho đến khi có lệnh mới. Cũng nên biết rằng chỉ khi nào phải bỏ tầu, người ta mới sử dụng từ ngữ này. Nó đòi hỏi tất cả các bậc mày râu đứng trước bất cứ nguy hiểm nào, cũng phải đứng nghiêm bất động trong khi đàn bà con trẻ được tập trung xuống thuyền cấp cứu.
 
Xuống thuyền
 
Các bậc tu mi nam tử trên con tầu Empire Windrush đã lấy chuyện Birkenhead làm phương châm hành động. Những nhân viên thuộc thủy thủ đoàn, mặc dầu khói than mù mịt, vẫn ở lại làm việc tại chỗ, trong khi các hành khách quân nhân lặng lẽ xếp hàng trên boong tầu cùng với các sĩ quan. Đàn bà trẻ con được đưa xuống thuyền cấp cứu. Chồng, cha của họ đứng trong hàng cởi hết áo ngoài ra ném xuống thuyền để họ mặc cho ấm nếu tầu cấp cứu đến trễ.
 
Khoảng 7 giờ 20 phút, tất cả đàn bà trẻ con và các người đau yếu đã xuống thuyền hết. Ngọn lửa bây giờ đã lên đến cực độ. Kính tại các cửa sổ của tầu nổ lách tách. Thuyền cấp cứu chỉ còn dư một ít chỗ. Theo lệnh của Đại tá Scott, các sĩ quan lựa ngay những binh sĩ trẻ tuổi rồi ra lệnh cho họ xuống những thuyền cuối cùng này. Trong số những người còn lại, nếu chỉ một người xô tới thuyền cũng đủ khiến nhiều người khác làm theo, nhưng không ai đã làm như vậy. Vì không có sự hỗn loạn nên tất cả thuyền cấp cứu đã được hạ thủy bình yên, không có cái nào bị lật mặc dầu hành khách xuống thuyền đều rất kinh hoàng.
 
Khi con thuyền sau chót được hạ thủy vào lúc 7 giờ 32 phút, 300 viên chức và nhân viên thủy thủ còn lại trên tầu không hề nao núng. Bộ đồng phục của Đại úy Wilson đã rách tả tơi, giầy của ông ta đã bị cháy xém đến tận chân. Nhưng ông ta vẫn chạy khắp tầu, lục lọi mọi nơi mọi chốn để biết chắc rằng không còn sót một người nào ở dưới tầu nữa mới thôi. Rồi ông điều khiển các thủy thủ thâu lượm các thùng, các miếng ván và bất cứ thứ gì nổi được trên mặt nước thì ném xuống biển để lát nữa thủy thủ và binh sĩ có cái mà bám vào.
 
Bỏ tầu
 
Đại tá Scott ra lệnh chót cho binh sĩ của ông : "Hãy bỏ giày và áo ngoài ra, và hãy rời tầu, nhưng không được bơi tới thuyền cấp cứu!". Binh sĩ của ông liền nhảy xuống biển trong khi lửa đã bén chân họ. Không thấy một con tầu nào khác, không ai biết đến bao giờ họ mới được cứu lên. Một người đầu bếp đã bị phỏng nặng ở mặt và cháy gần hết tóc, vẫn tiếp tục lượm những ghế tựa trên boong tầu quẳng xuống biển để làm phao cho những người ở dưới nước. Làm xong, ông ta lao mình xuống nước. Đại tá Scott và Đại úy Wilson cũng nhảy theo. Đó là những người cuối cùng rời bỏ con tầu.
 
Thành tích cuối cùng
 
Những thuyền cấp cứu nặng nề còn cách họ một khoảng ngắn đầy cám dỗ. Phần lớn những người ở dưới nước đều có thể bơi tới những thuyền này một cách dễ dàng. Nhưng họ đã tuân theo mệnh lệnh, vẫn giữ khoảng cách và cố bám vào bất cứ vật nào nổi mà họ vớ được. Có người còn chống đỡ dùm cho những người không biết bơi nữa. Về sau Đại úy Wilson thuật lại: "Không hề có một dấu hiệu hoảng hốt, kỷ luật thật phi thường!"
 
Đến 8 giờ 15, những người trên thuyền đều thấy vui mừng : một tầu chở hàng đã hiện ra ở phía chân trời, đang tiến tới cứu họ. Trong vòng nửa giờ, có ba tầu nữa xuất hiện. Những người đang bơi được vớt lên thật cẩn thận. Cuộc cấp cứu đã hoàn tất vào lúc 10 giờ 15 phút. Sau đó, xác con tầu Empire Winrush đỏ rực cũng chìm lỉm.
 
Kỷ luật cổ truyền
 
Không mất một người nào ngoại trừ bốn người bị chết do tiếng nổ lúc ban đầu. Kỷ luật Birkenhead đã được triệt để đề cao. Trong nhiều tai nạn khác xẩy ra trên mặt biển, người ta cũng đã noi theo thứ kỷ luật hào hùng này. Khi con tầu Cộng Hòa của người Anh gặp nạn trong một đêm tối trời năm 1909, người ta đã làm sống dậy truyền thống Birkenhead. Đàn bà và trẻ con được đưa xuống các thuyền cấp cứu, sau đó đến những người bị thương tích và đau yếu, rồi những nam hành khách, sau cùng mới tới chính thủy thủ đoàn.
 
Năm 1913 con tàu chở hàng Zemplemore của người Anh đã phát hỏa ở phía đông bờ bể Virginia 800 dặm. Hàng ở trên tàu đều là dầu, gỗ và bông đã bắt lửa và cháy thật khủng khiếp. Vậy mà tất cả thuyền cấp cứu đã được hạ thủy an toàn. Bốn giờ sau, một tàu cấp cứu đến và thủy thủ đoàn được vớt lên hết không sót một ai.
 
Trường hợp lừng danh là chiếc Titanic bị vỡ đôi khi đâm phải băng đảo tại Bắc Đại Tây Dương. Hàng ngàn người trên con tàu lộng lẫy của người Anh này đều biết là chết tới nơi rồi. Vậy mà họ vẫn tuân theo luật "Ưu tiên cho đàn bà con trẻ".
 
Những nhân vật quan trọng trên thế giới đã lùi lại nhường bước cho các nữ du khách xuống thuyền cấp cứu. 37 kỹ sư trông nom nồi súp de và phòng máy đã chết một cách hiên ngang. Tám nhạc sĩ đã vẫn ở lại trên boong cử lên những bài thánh ca. Tất cả đều chết hết. 
 
Đàn ông trên những con tàu này cũng như những tàu khác đã hành động theo truyền thống kỷ luật và lòng can đảm mà con tàu Birkenhead đã tạo dựng nên. Dân Anh sẽ không bao giờ quên được con tàu danh tiếng ấy.
 
Chuyện con tàu Birkenhead
 
Vào lúc 2 giờ sáng, con tàu Birkenhead đang trên đường chuyển vận binh sĩ và gia đình họ tới Nam Phi thì đâm phải một tảng đá cách Capetown 40 dặm. Mười phút sau, trong khi người trên tàu sợ hãi kéo lên boong thì con tàu lại bị đụng vào đá một lần nữa rồi bị xẻ làm hai. Phần trước chìm xuống nhưng mọi người đều kịp di chuyển sang phần sau của con tàu. Trong số 630 người ở trên tàu, có 170 người là đàn bà và con nít. Lính trên tàu đều là tân binh, một số sĩ quan còn trẻ. Ba thuyền cấp cứu được hạ xuống, mỗi thuyền chỉ chứa được 60 người.
 
Con tàu đang vỡ ra từng mảnh và chỉ còn dăm ba phút nữa là chìm. Đứng trước cái chết đang cầm chắc trong tay - vì nước đang ập vào tàu và biển đầy cá kình - nhưng không một ai đã lo giành thuyền cấp cứu cho mình. Viên Tư lệnh quân đội, Đại tá Sidney ra lệnh cho đàn ông tập họp trên boong tàu. Hàng trăm binh sĩ lặng lẽ chấp nhận số phận. Họ sắp hàng dưới ánh đuốc trong khi vợ con họ được đưa xuống thuyền cấp cứu.
 
Khi con thuyền cuối cùng đã đi xa, người trên thuyền còn nhìn thấy những hàng áo đỏ của các binh sĩ vẫn còn đứng hiên ngang trên boong tàu. Thủy thủ đoàn cùng đứng chung với những binh sĩ này. Tàu chìm xuống tất cả vẫn đứng nghiêm mặc cho nước dâng lên quá đầu. Khi con tàu đã chìm sâu dưới nước, vài người cố vùng vẫy trên mặt bể và bám vào những mảnh vụn của con tàu. Đến trưa, một tàu cấp cứu đã đến vớt họ lên, nhưng trước đó, 436 người đã chết. Trong số này có Đại tá Sidney, ông đã bám được vào một miếng ván, nhưng khi trông thấy hai anh thợ máy đang ngắc ngoải chìm xuống, ông liền choải miếng ván lại phía họ. Khi nhận thấy miếng ván không thể đỡ hết cả ba người, ông liền buông tay ra và chìm xuống. Theo lời kể lại của Đại úy John Wright, một sĩ quan sống sót, thì kỷ luật thật tuyệt vời, lệnh ban ra mọi người răm rắp theo, không một tiếng xì xào.
 
Hồi chưa xẩy ra vụ Birkenhead, mỗi khi có tàu nào gặp nạn, người ta thường "phận ai nấy lo". Kẻ mạnh tìm cách giành lấy thuyền cấp cứu, còn đàn bà con trẻ bị mặc kệ cho chết. Cái truyền thống "ưu tiên cho đàn bà con trẻ" đã được con tàu chở lính danh tiếng năm 1852 làm cho bất diệt. Truyền thống này đã cứu sống không biết bao nhiêu nhân mạng. Trong vụ cháy tàu Empire Windrush khủng khiếp vào tháng 3 năm 1954, nó đã cứu 1.511 người nữa.
 
 
VĂN TRUNG             
(Phỏng theo Keith Monroe)   
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 64, ra ngày 12-11-1972)
 

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2025

Chớ Nên Kiêu Ngạo


Thói thường, hễ tuổi trẻ mà đã tài cao thì sẽ sinh kiêu ngạo. Xưa ông Lê Quí Đôn là một người cực kỳ thông minh, nổi tiếng là thần đồng. Nhưng ông cũng kiêu ngạo vô cùng. Những giai thoại về tật kiêu ngạo của ông nhiều lắm, và cũng vì cái tật đó mà ông làm mất lòng nhiều người. Nhưng ông cũng đã được lãnh hội những bài học tỉnh người.
 
Năm mới 19 tuổi, ông đã đậu Bảng Nhãn, nên càng kiêu ngạo hơn lên. Ông nghĩ rằng trên đời chẳng ai bằng được mình, bèn dựng một tấm bảng để mấy chữ "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn" nghĩa là "có ai thắc mắc về chữ gì thì đến mà hỏi".
 
Khi cụ thân sinh ông qua đời, đang lúc tang ma trọng thể, thì có một cụ già ung dung đến viếng, tự xưng là bạn cố tri của thân sinh ông. Hỏi danh tánh, cụ chỉ nói:
 
- Cháu ít tuổi không biết. Bác là bạn học với cha cháu khi xưa, nhưng công danh lận đận, nhà thì nghèo, đường thì xa, nên ít khi tới thăm cha cháu được. Nay nghe tin cha cháu tạ thế, bác có đôi câu đối khóc bạn. Cháu lấy giấy bút ra bác đọc cho mà viết.
 
Ông Lê Quí Đôn lấy giấy bút. Cụ già mới dọc:
 
- Chi...
 
Ông Lê Quí Đôn còn đang ngập ngừng vì chưa biết viết chữ chi nào. Chữ nho thường chỉ một âm mà nhiều nghĩa, nếu đọc cả câu, thì ông mới biết là dùng chữ với nghĩa nào, và sẽ viết được ngay. Nay vì mới có một chữ chi, nên ông còn đang ngần ngại, không biết nên viết chữ "tri" là "biết" hay "chi" là "chưng". Đang băn khoăn thì ông cụ lại đọc thêm:
 
- Chi...
 
Ông mới đành hỏi:
 
- Thưa cụ, chữ "chi" nào ạ?
 
Cụ già thở dài:
 
- Chết nỗi! Cháu đã đỗ Bảng Nhãn mà có chữ "chi" cũng không biết viết! Thế lỡ có ai thắc mắc, đến hỏi cháu chữ này thì cháu viết làm sao được.
 
Đoạn ông cụ đọc luôn hai vế:
 
- "Chi chi tam thập niên dư, Xích huyện Hồng châu kim thương tại.
- Tại tại sổ thiên lý ngoại. Đào hoa Lưu thủy tử hà chi?"
 
Nghĩa là:
 
- Thấm thoát hơn ba chục năm, Xích huyện Hồng châu nay còn đó.
- Hỡi ơi ngoài xa nghìn dặm, Đào hoa Lưu thủy bác về đâu?
 
Câu đối rất hay, Lê Quí Đôn và các quan đều giật mình. Ông cụ phủ phục xuống trước quan tài mà khóc rống lên:
 
- Ới anh ơi! Anh bỏ con anh mà đi, con anh nó đỗ đến Bảng Nhãn mà có chữ chi là chưng nó cũng không biết, có khổ không anh ơi!
 
Khóc chán rối đứng dậy bỏ đi, để mặc ông Lê Quí Đôn mặt mày xám ngoét bên cạnh các vị đại khoa đang còn ngơ ngác.
 
Nhưng, sau hôm đó, thì tấm biển tỏ thái độ coi người bằng nửa con mắt được triệt hạ luôn, không thấy đâu nữa. 
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 109, ra ngày 28-9-1973)
 
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>