Thứ Tư, 18 tháng 6, 2025

Loài Chim Di Trú


Hàng ngàn năm nay, người ta thường chứng kiến những cuộc di chuyển vĩ đại cùa hàng trăm loài chim, tùy theo từng loài, chúng có thể thực hiện những cuộc hành trình dài hàng chụ ngàn cây số từ Nam lên Bắc, hoặc những cuộc di chuyển ngắn trong một khu vực địa lý nhất định. Mặc dù đã được nhiều viện khảo cứu về chim muông trên thế giới chú tâm tìm kiếm, ngày nay người ta vẫn chưa có một kết luận chính xác về các động lực kỳ bí thúc đẩy chúng. Thật không khó khăn để phỏng đoán rằng sự di trú có một giá trị sống chết như những loài di trú theo điều kiện thời tiết. Chim Petrel, một loài chim biển nhỏ lông đen trắng, cánh dài, làm tổ trong những hốc đá ngoài biển khơi có khuynh hướng bay vòng quanh trái đất giữa hai kỳ sinh đẻ của chúng. Thường thì chúng bay về phía Bắc, về mùa Hạ và Thu để kiếm côn trùng về nuôi đàn con sắp nở ra đồng thời tìm kiếm những vùng đẹp trời hơn để di chuyển đến mỗi khi vùng ở hiện tại khí hậu trở nên oi bức và đồ ăn thiếu thốn.
 
Giống chim Hải Yến Bắc Cực được ghi nhận là có tầm hoạt động xa nhất, trong mùa Xuân chúng đẻ trứng từ vĩ tuyến 82 độ Bắc, chúng bắt đầu di chuyển dọc theo bờ biển Đại Tây Dương để tới vùng Âu Châu và Phi Châu, hoặc theo bờ Đại Tây Dương tới Mỹ Quốc và sau đó chúng có thể xuống tận vĩ tuyến 74 độ Nam. Cuộc di chuyển này có thể xa đến 60.000 cây số. Đối với loại chim sống trên đất liền, chúng cũng có thể thực hiện những cuộc vượt biển như loại Américan Golden Plover (óc câu Mỹ Châu) có tổ ở vùng Alaska, chúng vượt trên 3.000 cây số qua Đại Tây Dương để tới các hải đảo Hạ Uy Di, ngay cả loại chim nhỏ xíu như Rubythroated Hummingbird, chúng có thể bay không ngừng suốt quãng đường từ 100 tới 200 cây số qua vịnh Mễ Tây Cơ.
 
Khi thực hiện những cuộc di trú đó, loài chim không bay riêng rẽ mà thường hợp thành từng đoán bay rợp trời. Khi chứng kiến những cảnh tượng đó chúng ta thường có những mối xúc cảm rõ rệt. Nhất là chúng lại có những thời biểu di trú nhất định từng mùa hay theo thời tiết. Tại Bắc Mỹ, các viện nghiên cứu chim muông đã thống kê được trong khoảng thời gian từ 1920 đến 1958 có đến 7.500.000 chim tụ họp trong vùng và từ đó đến nay hàng năm có khoảng nửa triệu chim đã di trú trong vùng Bắc Mỹ. Khi nghiên cứu các loại chim di trú này người ta phải sử dụng một hệ thống Radar, và chính nhờ đó các viện nghiên cứu lại cho biết, các loài chim di trú thường bay trên độ cao từ 800 đến 900 thước, Radar cũng khám phá được lộ trình của từng loài chim.
 
Cuộc di trú của loài chim thường gây ra bởi nhiều nguyên do, nhưng nguyên do trọng yếu nhất, người ta cho rằng thường sau mỗi kỳ sanh đẻ của chúng trong những ngày ngày ngắn đêm dài, đã làm thay đổi các kích thích tố trong cơ thể chúng, sự thay đổi này khiến chim cần thức ăn để dự trữ trong cơ thể dưới dạng mỡ, nó cũng làm cho chim trở nên hoạt động.
 
Cuộc di trú của loài chim lại thường có một hướng nhất định, và dù có xa hàng ngàn dặm chúng cũng có khả năng để tìm về tổ của chúng. Nhiều cuộc thí nghiệm đã chứng minh rằng chim đã dùng mặt trời và sao làm kim chỉ hướng, bởi vì người ta đã thấy chúng chỉ bị lạc hướng trong bầu trời u ám.
 
Một loài Bồ Câu hoang dã có khả năng tìm về tổ cũ rất chính xác mặc dù người ta có mang chúng đi thật xa. Một cuộc thử nghiệm khác đối với loài chim Manx Shearwater, người ta đã bắt chúng tại ổ trong vùng Skokholm Anh Quốc, sau đó chuyển đến Boston xa hơn 3.000 cây số, loài chim này đã trở về ổ của chúng 12 ngày sau đó. Cũng trong chiều hướng thí nghiệm đó, một loài chim khác, Hooded Crows được bắt từ vùng Rossitten Nga Sô, sau đó được chở về hướng Tây Flensburg Đan Mạch xa hơn 900 cây số, khi thả ra loài chim này lại có những hướng bay y hệt hướng mà nó đã thực hiện khi còn ở đất Nga.
 
Dĩ nhiên cho đến nay ngành "điểu học" vẫn chưa trả lời hết các thắc mắc về sự di trú của loài chim.
 
 
TRƯỜNG KỲ      
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 94, ra ngày 17-6-1973)
 

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

Chim Sáo... Ngày Xưa

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  
 
 
Con chim sẻ nâu chuyền trên ngọn lá
Hót líu lo bài hát ngắn, dễ thương
Bé có thấy tuổi thơ mình như thế
Thật yên vui bên bóng mát vô thường
 
Nhớ không bé ngày bé lên năm tuổi
Áo màu xanh bên luống cỏ cũng xanh
Bé bắt cào cào về nuôi chim sáo
Vụng về ghê đi chẳng có con nào
 
Bé bi bô sợ sáo buồn sáo "khóc"
Trong lồng tre giải đầy những hoa dừa
Bé đâu biết chim sáo đang gọi mẹ
Nhìn ra trơi giăng mây lưa thưa
 
Khi me bảo bé ngẩn ngơ đến tội
Đôi tay hồng rón rén mở lồng son
Gọi: "sáo ơi sáo bay ra trời nhé"
Bé ngây ngô những dễ mến vô cùng
 
Con chim nhỏ chao chuyền trong gió
Mắt long lanh rồi vỗ cánh líu lo
Vụt bay đi trong vòm trời cao rộng
Bé một mình đứng ngó, dáng ngẩn ngơ
 
Giờ chim sẻ cũng chuyền trên mái ngói
Nhưng bé không còn vụng dại hái hoa
Bắt cào cao nuôi chim trong lồng nhỏ
Bé chỉ nhìn nghe kỷ niệm thoáng qua
 
                                             THÔNG XANH
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 94, ra ngày 17-6-1973) 
 

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

Lời Thề Danh Dự


Tướng Cambronne, xưa kia là một danh tướng của Pháp. Từ cấp Hạ sĩ ông đã lần lượt tiến lên đài danh vọng. Năm 1795, hạ sĩ Cambronne đóng ở Nantes, lúc đó ông mới 20 tuổi. Mặc dầu còn trẻ tuổi, nhưng ông đã mắc phải một thói xấu, một "tật kinh niên" rất khó sửa : "tật" say rượu. Ông thường say khướt, và một hôm vì quá chén nên ông đã cãi lại thượng lệnh, rồi hăng tiết ông còn đánh luôn cả viên sĩ quan truyền lệnh nữa, vì thế ông bị tống giam và bị tòa án quân sự kết án tử hình.
 
Thấy ông bị án tử hình, một viên trung tá động lòng trắc ẩn đứng ra xin tòa ân xá cho ông, nhưng ông thẩm phán trả lời:
 
- Không thể được, phải trừng phạt để làm gương cho kẻ khác.
 
Tuy thế vị Trung tá kia cứ nài nỉ mãi, nên sau cùng ông thẩm phán bằng lòng ân xá cho hạ sĩ Cambronne, nhưng với một điều kiện, là buộc hạ sĩ Cambronne phải triệt để chừa rượu.
 
Được tin mừng, viên trung tá vội vàng vào trong ngục báo cho hạ sĩ Cambronne biết:
 
- Chào hạ sĩ, hạ sĩ phải giam ở đây vì đã phạm một trọng tội phải không?
 
- Thưa trung tá, đúng thế, và tôi sẽ phải chết để đền tội ấy.
 
- Chưa chắc đâu.
 
Hạ sĩ Cambronne bỡ ngỡ nhìn viên trung tá:
 
- Tại sao còn chưa chắc. Trung tá lại không thừa biết luật lệ nghiêm minh của quân đội hay sao?
 
Viên trung tá mỉm cười ôn tồn đáp:
 
- Thế mà hạ sĩ không phải chết mới lạ chứ!
 
- Ủa, tôi sẽ khỏi chết à. Tại sao thế?
 
- Tại vì tôi đã nài nỉ xin ân xá cho hạ sĩ.
 
- Nhưng ông thẩm phán có cho không?
 
- Có lắm chứ, nhưng với một điều kiện.
 
- Với một điều kiện?
 
- Phải, chỉ một điều kiện thôi. Nhưng không biết hạ sĩ có bằng lòng không?
 
- Tại sao lại không? Tôi xin sẵn lòng làm tất cả mọi sự miễn là có thể cứu được mạng sống và danh giá tôi là đủ rồi.
 
Lời nói, điệu bộ của Cambronne tỏ ra là ông rất nóng lòng muốn biết ngay điều kiện kia và sẵn sàng thi hành lập tức, khiến viên trung tá phải bật cười...
 
Hạ sĩ Cambronne giục rối rít:
 
- Xin trung tá cho biết điều kiện gì để còn thi hành.
 
Viên trung tá thong thả nói:
 
- Từ nay hạ sĩ phải đoạn tuyệt với rượu. Đó, điều kiện chỉ đơn giản có thế thôi.
 
Nghe viên trung tá trả lời thế, hạ sĩ Cambronne đang há hốc miệng tráo mắt để nghe, bỗng xịu mặt xuống. Ông cúi đầu suy nghĩ... rồi lát sau ông cương quyết trả lời:
 
- Không, gì chứ cái đó thì không thể được!
 
Câu trả lời đó đã làm cho viên trung tá vô cùng ngạc nhiên. Ông bỡ ngỡ nhìn hạ sĩ Cambronne rồi hỏi:
 
- Tại sao lại không thể được. Sao khi nãy hạ sĩ nói với tôi là hạ sĩ sẵn sàng làm hết mọi sự?
 
- Tại vì Cambronne và rượu. Rượu và Cambronne đã khắng khít kết nghĩa với nhau rồi nên không thể nào đoạn tuyệt nhau được. Bao lâu Cambronne này còn sống là phải có rượu...
 
Vừa nói ông vừa vỗ ngực một cách ương ngạnh.
 
- Thế hạ sĩ không biết là ngày mai hạ sĩ sẽ phải xử tử sao?
 
- Có lắm chứ.
 
- Tại sao hạ sĩ lại đành chịu chết cách tủi nhục hơn là sống mà không say rượu?
 
- Vì tôi không thể nào rời xa rượu được. Sống tất phải say. Nói cách khác : có say mới sống được.
 
Viên trung tá dịu dàng giảng giải:
 
- Hạ sĩ hãy nghĩ lại xem nếu hạ sĩ không muốn rời xa rượu thì ngày mai hạ sĩ sẽ phải chết, mà chết tức là phải vĩnh biệt rượu. Như thế nghĩa là dầu muốn dầu không đàng nào hạ sĩ cũng phải bỏ rượu. Nhưng nếu hạ sĩ tự ý bỏ rượu thì hạ sĩ sẽ được sống và lấy lại được danh giá. Hạ sĩ chớ nên cố chấp...
 
Hạ sĩ Cambronne yên lặng cúi đầu suy nghĩ...
 
Một lát sau ông ngẩng nhìn viên trung tá hỏi:
 
- Nhưng nếu tôi bằng lòng thề hứa thì tôi phải làm gì để trung tá tin và nhận lời thề của tôi?
 
- Tôi không đòi hỏi gì hết. Tôi chỉ cần một lời thề danh dự của hạ sĩ. Phải, hạ sĩ hãy lấy danh dự mà thề. như vậy đã đủ rồi...
 
Hạ sĩ Cambronne nhìn viên trung tá mỉm cười:
 
- Trung tá tốt quá! Xin thành thực cám ơn trung tá.
 
Viên trung tá mỉm cười không nói gì. Hạ sĩ Cambronne đưa hai tay lên cao trịnh trọng tuyên bố:
 
- Tôi, hạ sĩ Cambronne, xin lấy danh dự mà thề: "Từ nay cho đến chết không khi nào tôi uống một hớp rượu. Phải, chỉ một hớp cũng không".
 
Rồi ông quay sang hỏi viên trung tá:
 
- Thưa trung tá, như vậy có được không?
 
- Được lắm. Như thế càng tốt, tôi rất bằng lòng. Ngày mai hạ sĩ sẽ được trả tự do và cấp bậc nữa.
 
*
 
Ngày tháng trôi qua...
 
Hai mươi lăm năm sau, hạ sĩ Cambronne được thăng chức thiếu tướng và sau lần ông chỉ huy trận đánh oanh liệt ở Waterloo, ông về hưu tại Ba lê. Ở đây, ông được dân chúng yêu mến và kính nể.
 
Viên trung tá đã xin ân xá cho tướng Cambronne ngày trước, lúc đó cũng là một vị tướng lãnh đã về hưu và cũng ngụ tại Ba lê đọn tiệc linh đình để thiết đãi tướng Cambronne và các bạn đồng ngũ khác của ông. Bữa tiệc hôm ấy tướng Cambronne đã được ngồi ghế danh dự.
 
Tiệc bắt đầu...
 
Trung tướng chủ nhân rót một cốc rượu trịnh trọng mời tướng Cambronne.
 
Tướng Cambronne nhìn ông bỡ ngỡ:
 
- Trung tướng mời tôi cái gì đó?
 
- Đây là một thứ rượu hảo hạng. Xin mời thiếu tướng thưởng thức.
 
- Không, xin cám ơn trung tướng.
 
- Nhưng thưa thiếu tướng, đây là rượu Rhum quý lắm vì đã để dành từ hơn một trăm năm nay.
 
- Vẫn biết thế nhưng tôi xin cám ơn.
 
Viên trung tướng hết sức bỡ ngỡ:
 
- Thì thiếu tướng cứ thủ một chút xem sao...
 
Thấy viên trung tướng cứ mời mọc mãi, tướng Cambronne đập nhẹ tay lên bàn, hăng hái trả lời:
 
- Nhưng còn danh dự tôi, thành Nantes, nhà lao, ân xá và lời thề của tôi, trung tướng đã quên những cái đó cả rồi sao mà trung tướng cứ ép tôi thưởng thức?...
 
Mọi người ngơ ngác hết nhìn nhau lại nhìn ông, vì không ai hiểu ông muốn nói gì cả. Tướng Cambronne ung dung nói tiếp:
 
- Hẳn trung tướng còn nhớ cái ngày mà tôi đã lấy danh dự thề hứa trước mặt trung tướng là tôi nhất định chừa, không khi nào uống rượu nữa? Phải, chính từ ngày đó tới nay ròng rã đã mấy chục năm trời, tôi quả quyết với trung tướng là tôi chưa hề khi nào nhấp môi lấy một hớp rượu, dù chỉ là một hớp nhỏ cũng vậy.
 
Một phút yên lặng...
 
Mọi người như nín thở nghiêng mình cúi chào tỏ lòng cảm phục thái độ anh hùng và lòng kiên quyết của tướng Cambronne. (Lúc đó viên trung tướng mới sực nhớ lại lời thề của tướng Cambronne ngày xưa). Rồi không ai bảo ai, mọi người đồng một lượt vỗ tay vang dậy hòa lẫn với những tiếng hoan hô, tiếng cười vui vẻ...
 
 
XUÂN VŨ      
 
(Trích từ tuyển tập truyện ngắn Tuổi Hoa Thú Quê) 
 

Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

Bài Học Thương Nhau


Phần thứ nhứt

Hàm râu Lưu Bị

Hôm nay, Keo đi học thật sớm. Vừa ra đến bờ đê, nó đã thấy bé Nga từ trong lũy tre xanh tung tăng chạy ra, hí hởn như có điều gì vui thích lắm. Nga reo lên:

- Keo ơi, chờ Nga đi với.

Keo đứng lại đợi. Nga tiến lên đi song song cạnh Keo, môi chúm chím cười. Keo hỏi:

- Nga thuộc bài không?

- Không, nhưng lát nữa vào lớp, Nga đọc qua vài lượt là thuộc. Còn Keo?

- Đêm qua đi coi hát về buồn ngủ muốn chết, còn thì giờ đâu mà học...

- Không sao đâu, để Nga nhắc cho.

Keo có vẻ lo lắng:

- Nếu thầy bắt được?

- Thì quỳ gối hết cả hai chớ sao.

Nga vừa nói vừa đưa tay vén mái tóc bị gió đưa phất phơ trước trán. Đôi má nó phinh phính, ửng đỏ. Mắt nó long lanh, sáng ngời.

Keo cảm động nói:

- Nga không sợ các bạn cười à?

- Không.

Keo muốn nói một lời cám ơn, nhưng nó không biết nói thế nào cho Nga vừa lòng. Nó chợt nhớ đến mấy quả mận nó nhịn ăn để dành cho Nga. Nó lật đật mở chiếc cặp bằng đệm, lấy ra ba quả mận hồng hồng. Nó trao hết cho Nga:

- Mận ngon lắm, Nga ăn đi.

Nga tiếp lấy, mân mê trên tay:

- Mận ở đâu mà lớn thế này?

- Của má Keo cho hôm qua đấy.

- Anh ăn chưa?

Keo chưa ăn trái nào, nhưng nó làm bộ như đã ăn rồi bằng cách chép miệng thỏa mãn:

- Ăn một bụng, ngon ghê!

Nga cười, chìa cho nó một trái:

- Anh ăn nữa với Nga cho vui.

Nó không muốn nhận, nhưng sợ Nga buồn, nó đưa tay cầm lấy quả mận cắn một miếng, miệng chắp chắp một cách ngon lành. Nga chưa ăn mà cũng đã thấy ngon, lòng nó rộn ràng vui sướng lạ.

Hai đứa đến trường vừa khi tiếng trống vang lên báo giờ vào học. Cả hai học chung lớp Nhì trường tiểu học. Nga ngồi đầu bàn, Keo bàn thứ bảy, vì Keo là trai lại lớn hơn Nga một tuổi nên phải ngồi phía sau. Trước khi bước vào, Nga còn dặn khẽ:

- Lát nữa có trả bài, nhớ lắng nghe Nga nhắc đa.

Keo không nói gì, lặng lẽ về chỗ ngồi. May mắn thay, hôm ấy thầy không kêu Nga và Keo lên trả bài Sử ký. Keo ngồi hồi hộp muốn chết, mắt cứ lấm lét nhìn thầy. Nga thì cứ cúi gầm đầu vào tập. Tiếng trống ra giờ chơi giải thoát cho cả hai.

Keo ra sân, thấy Nga đang liến thoắng chuyện trò cùng các bạn trai lẫn gái. Chúng ngồi chùm nhum đâu mặt vào nhau như ngồi ăn cỗ. Keo cũng ráp vào, ngồi đối diện với Nga. Một bên trai một bên gái. Thắng Mẹo nói, giọng khàn khàn:

- Đêm qua, gánh bầu Kim diễn tuồng Chung Vô Diệm, tao thấy thương ông vua ghê, ông vua gì mà lấy cái bà xấu như quỷ dọa xoa.

Nga bĩu môi nói:

- Xí, về sau người ta cởi lớp đẹp như tiên. Tao thương bà ta khi bị đày vào cái lò gạch, đêm đêm ở một mình chắc bả sợ ma thấy mồ.

Con Liên cười to nói:

- Mày dốt quá, bả bị đày vào lãnh cung, chớ đâu phải vào cái lò gạch.

Con Tèo tiếp:

- Bả có phép thần thông sợ gì ma.

Thằng Mít xen vào:

- Tao đợi bả chun vào cái "vịm" mà đợi mãi đến vãn cũng không thấy bả chun vào. Gánh hát quảng cáo dóc tổ.

Cả bọn cười rùm lên, làm cho thằng Mít ngơ ngác không hiểu chúng cười gì. Thằng Keo đề nghị:

- Lát nữa tan học, mình về ngang rạp hát coi bả có chun vào "vịm" chưa.

Nga nhanh nhẩu tiếp:

- Phải rồi, mình ghé xem ông vua đã cạo râu chưa.

Câu chuyện đang ròn rã thì tiếng trống vang lên. Chúng kéo nhau lũ lượt vào lớp. Tan học buổi sáng, Keo cầm đầu các bạn tiến về phía rạp hát. Đến một ngõ rẽ, Keo bỗng nói với các bạn:

- Tụi bây đợi tao một chút.

Nói rồi, nó kéo Nga chạy về phía vườn cây bên cạnh. Một lát, hai đứa chạy về phân phát cho mỗi bạn một ngọn roi chùm ruột. Keo quơ roi trước mặt (tưởng tượng như con ngựa của vị tướng hát bội), miệng oang oang thét lên:

- Nào chúng ta hãy lên đường.

Lũ trẻ cũng bắt chước quơ roi. Đoàn kỵ mã lần lần tiến tới. Rạp hát đã hiện trước mặt chúng. Keo dẫn các bạn về phía hậu trường. Áo, mão, râu ria treo la liệt trên vách đất. Chúng trố mắt nhìn. Từ bên trong, một người đàn ông bước ra, mặt mét chằng, môi thâm sì, nhìn chúng với cặp mắt trìu mến.

Keo kề tai Nga nói nhỏ:

- Ông vua hồi hôm đó.

- Sao anh biết?

- Nga cứ hỏi thử ổng xem.

Nga không tin. Ông vua hồi hôm trông oai vệ, đâu có lừ đừ kỳ cục như vậy. Nó ngây thơ hỏi:

- Ông ơi, có phải hồi hôm ông làm vua không?

Người đàn ông vuốt tóc bé Nga, vui vẻ đáp:

- Phải đó, mà cháu hỏi làm gì?

- Ông làm vua hay quá, bộ râu của ông đẹp quá!

Nó nhìn mấy bộ râu treo tòn ten, láu lỉnh hỏi:

- Bộ râu ông mang hồi hôm là bộ râu nào hở ông?

Người đàn ông chỉ lên vách:

- Đó, bộ râu ba chòm đó.

Keo lấy chiếc roi chùm ruột, đếm lia:

- Một, hai, ba, râu ba chòm đẹp quá. Phải mình được một bộ mang chơi hén Nga?

Rồi nó lại quơ chiếc roi chỉ sang mấy hàm râu bên cạnh:

- Râu này là râu ria của ông đội mũ nhà vuông, râu này là râu quắn của ông mặt lọ nồi.

Người đàn ông bật cười:

- Bậy nà, đó là râu văn và râu võ.

Nga cười mủm mỉm rất dễ thương:

- Râu mà cũng biết văn, biết võ nữa sao ông?

Cả bọn cười ồ. Keo lém lỉnh nói:

- Tối nay ông dẫn tụi con vào coi nha ông? Tối nay hát tuồng gì hở ông?

- Ừ, các cháu đến xem. Tối nay hát tuồng Tam Quốc, tuồng ruột đó đa.

Lũ trẻ cúi chào rồi kéo nhau đi. Người đàn ông đứng nhìn theo, vui lây cái vui hồn nhiên của lũ trẻ.

*

Trời vừa sụp tối, tiếng trống từ rạp hát đã vang lên dồn dập như kêu mời, thúc giục những người mê hát trong làng. Trời sáng trăng, dân làng kéo nhau đi xem tấp nập.

Keo và Nga đến nơi đã thấy các bạn đang đứng lóng ngóng trước rạp. Thằng Mít càu nhàu:

- Ông vua đẩy cây tụi mình rồi.

Con Nga chặc lưỡi tiếc rẽ:

- Chắc ổng bận vẽ mặt, mang râu.

Thằng Keo nói:

- Không cần có ổng, tụi bây cứ theo tao.

Nó dẫn lũ trẻ lần ra phía sau rạp tối om, chỉ cái lỗ chó mà nó để ý từ lâu:

- Tao chun vào trước, nếu êm tụi bây lần lượt chun vào sau. Nhớ trườn mình nhè nhẹ nghe hôn?

Nói rồi nó thực hành liền. Nó nằm sát xuống đất, lấy tay vạch lỗ vách cho rộng, chui đầu vào, mình trườn õng ẹo như con rắn... Nga bụm miệng để khỏi bật cười. Coi bộ êm, Nga bắt chước chun theo. Khi cả bọn đã vào bên trong, chúng kéo ra phía trước, chen vào hạng cá kèo.

Tuồng đang tiếp diễn. Tiếng sáo, tiếng cầm, tiếng nhị hòa điệu nhịp nhàng. Keo và Nga đứng cạnh nhau, mắt chăm chăm nhìn lên sân khấu.

Cảnh đền vua. Ông vua đang ngồi trước long án, mặt sáng rỡ, râu ba chòm tha thướt uy nghi. Phía dưới, hai hàng bá quan văn võ đang đứng chầu (ngày xưa hát bội chưa có ghế cho quan ngồi). Nga kéo tay Keo, hỏi nhỏ:

- Phải ông Lưu Bị đó không anh?

Keo đáp:

- Chắc là ổng đa.

Trên sân khấu, Lưu Bị đưa tay vuốt râu rất oai vệ, rồi cất tiếng nói lối chậm rãi theo giọng xuân:

"Từ Mê Trước phụng thừa các hạ,

Đã thu dư thám thính Đông Ngô

Để cho ta..."

Nói đến đây, Lưu Bị bỗng hỉnh hỉnh lỗ mũi rồi ách xì một tiếng lớn làm cho khán giả cười rộ lên. Lưu Bị làm nghiêm, cất tiếng oang oang lấn át cả tiếng cười:

"Để cho ta:

Đêm bát ngát lòng lo,

Ngày bâng khuâng dạ tưởng.

Tọa ngọa bất an cẩm trướng,

Bồi hồi..."

Lưu Bị nhăn mặt như "bất an" thật, rồi ách xì... ách xì... ách xì... một hơi liên tiếp làm cho tiếng cười dưới hàng ghế khán giả vang lên gần vỡ rạp.

Nga ôm bụng cười ngặt nghẽo. Thằng Mít la to:

- Lưu Bị cảm gió rồi, cho Lưu Bị uống Át-pi-rinh.

Ông vua ráng trấn tĩnh, đảo mắt, vuốt râu, nhìn bá quan văn võ, giọng ông trở nên thiểu não vô cùng:

"Tọa bất an cẩm trướng,

Bồi hồi mạc cảm sầu tình.

Đã sai Mê Trước thông tin,

Miền Tân Dã sao không trở lại?"

Vừa dứt câu, Lưu Bị lại nhăn mặt, hỉnh hỉnh lỗ mũi... ách xì... ách xì... ách xì...

Khán giả không cười nữa mà rộ lên:

- Trả giấy lại. Cho Lưu Bị vào nghỉ.

- Trả giấy lại.

- Trả giấy lại.

Thằng Mẹo thét to.

- Khiêng Lưu Bị vào, khiêng Lưu Bị vào...

Không ai dám khiêng Lưu Bị, nhưng Lưu Bị từ từ áo não bước vào. Màn hạ xuống thật nhanh như muốn ngăn cách sân khấu với cảnh ồn ào náo động bên ngoài.

*

Lũ trẻ kéo nhau ra về, đứa nào cũng được một trận cười ngả nghiêng, ngả ngửa.

Qua phút cười gần bể bụng, Nga bỗng thấy ái ngại cho ông vua. Nó đi bên Keo, bên các bạn mà vẫn lặng thinh, mặc cho các bạn ồn ào bàn tán.

Keo cũng trầm lặng đi, đầu cúi xuống như đếm từng bước chân.

Nga bỗng nói với Keo, giọng như trách:

- Tại anh đó.

Lũ trẻ ngạc nhiên:

- Có chuyện gì vậy, Keo?

Nga đỡ lời cho bạn:

- Có gì đâu, ảnh mua thuốc nhảy mũi thoa vào roi chùm ruột rồi mượn cớ khen râu, ảnh thoa thuốc vào râu, làm ông Lưu Bị ách xì gần hụt hơi.

Lũ trẻ vỡ lẽ càng khoái chí cười to.

Keo vẫn im lặng. Nó nghĩ đến cặp mắt trợn dọc của ông bầu Kim, nó nghĩ đến chén cơm đầy nước mắt của vợ con người kép hát nạn nhân. Lòng nó nao nao hối hận, cổ nó nghẹn ngào không thốt được lời nào.

Riêng Nga, nó nhớ đến cử chỉ hiền từ của người đàn ông ban trưa đưa tay dịu dàng vuốt tóc nó, đôi mắt trìu mến của ông nhìn theo cho đến khi chúng nó khuất qua rặng tre xanh.

Mắt Nga bỗng chớp chớp, rưng rưng...

Phần thứ nhì

Bài học thương nhau

Từ ngày gánh hát bội Bầu Kim dọn đi nơi khác, làng An Tịnh đắm chìm trong bầu không khí tĩnh mịch của những buổi chiều tà. Dân quê, những đêm trăng sáng, thường nhớ đến những tràng trống rộn rã, thúc giục, những giọng hát nam, hát khách của nàng Điêu Thuyền diễm lệ hay chàng Lữ Bố khôi ngô.

Riêng đám học sinh trường tiểu học, cứ mỗi khi ra chơi, chúng vẫn quen tụ họp nơi sân trường để nhắc nhở đến Chung Vô Diệm và Lưu Bị. Trong tâm hồn mỗi đứa trẻ hình như có một thần tượng hát bội. Nhất là Keo và Nga, chúng luôn luôn muốn được lên sân khấu, một đứa oai vệ uốn sợi lông trĩ cong vòng trên chiếc kim khôi, một đứa lộng lẫy trong chiếc áo giáp đầy kim tuyến, mái tóc hình cánh phượng cài trâm vàng lấp lánh.

Keo và Nga nhất định thực hiện điều mơ ước đó. Một hôm, học sinh trường tiểu học An Tịnh xúm nhau đọc một tấm chương trình viết trên giấy học trò với những tuồng chữ gò gẫm nhưng vẫn ẻo lả non nớt của một con bé nào đó trong trường:

Đoàn hát bội tân thời

BẦU NGA

Toàn Nữ Ban

Sáng chúa nhựt này, tại vườn cây ông Cả,

diễn tuồng ruột rất hay:

TRƯNG NỮ VƯƠNG

Có ca vọng cổ và chưng bươm bướm

Ông Cả là ba của bé Nga. Ông có một vườn cây ăn trái phía sau nhà, trồng đủ các loại quít, xoài, mãng cầu, măng cụt. Vườn xum xê đầy bóng mát, bé Nga thường rủ các bạn đến chơi vào những ngày lễ. Chúa nhựt này, ba má Nga đi ăn giỗ ở làng bên, Nga thừa dịp tổ chức buổi hát trong vườn nhà.

Mới chín giờ sáng, lũ trẻ đã tụ tập đầy đủ tại vườn. Tiếng trống con tung... tung vang lên, làm cho lòng chúng càng thêm rộn rã. Sân khấu lộ thiên, chỉ có một bức màn giăng ngang ngăn cách sân khấu với hậu trường. Bức màn ấy chính là cái mền đắp của bé Nga. Toàn nữ ban Bầu Nga gồm có con Liên, con Tèo, con Lặc, con Hợi, con Tý và bé Nga. Con Liên ăn cắp phấn hớt tóc của ba em đem vào cho các bạn dồi mặt. Con Lặc đem giấy bao nhang vào để các bạn thoa môi cho đỏ như son. Con Hợi lấy lá ổi chằm mũ cho các cô đào giả kép. Con Tý mượn đủ khăn lông khăn bàn, khăn tay để các bạn sắm tuồng. Con Tèo lo làm gươm giáo cho đoàn nữ binh của Trưng Trắc.

Tiếng chuông bán cà rem reo lên ba hồi, báo hiệu đến giờ khai diễn. Khán giả đang ồn ào bỗng nhiên im lặng. Từ hậu trường, bé Nga uyển chuyển bước ra. Má phấn, môi hồng, mái tóc lấp lánh mấy vòng chuỗi đủ màu, lưng thắt một chiếc khăn xanh lủng lẳng một thanh kiếm gỗ. Đó là vị anh thư dân tộc: Trưng Trắc. Hai bên có hai thế nữ đứng hầu.

Trống đánh tung... tung...

Trưng Trắc đang nhớ Thi Sách, vẻ mặt u sầu, cất giọng não nùng nói lối:

"Phu quân ôi, như em là:

Nơi trướng gấm sầu tình đoạn đoạn,

Chốn màn loan thảm lụy liên liên.

Giọng sầu quyên thêm gợi lửa phiền,

Ánh mờ nguyệt càng trêu dạ thảm, hề..."

Tiếng trống lại nổi lên một chập. Trưng Trắc ngậm ngùi than thở:

"Vầng trăng ai khéo xẻ làm đôi,

Nửa dạng mờ trông nửa biếng soi.

Mỏi ngóng ngày về tin nhạn vắng,

Hương khuê chích bóng dạ bồi hồi..."

Giọng Nga trầm buồn, gợi cảm. Thằng Keo thấy bạn nó đẹp quá. Giọng hát làm cho lòng nó nao nao. Thằng Mít, thằng Mẹo, thằng Lùn trố mắt nhìn, lỗ tai vảnh lên, mồm hả to như một bầy khỉ đột. Mấy đứa khác đều im lặng lắng nghe.

Nói lối xong, Nga liền cất giọng thanh tao vô bài Vọng cổ hoài lang:

"Từ phu tướng

Cất bước lên đàng

Vào ra luống trông tin chàng..."

Khi Nga vừa ca dứt bản, một tràng pháo tay nổ lên vang dội cả khu vườn. Trưng Vương và hai tì nữ đã đi vào mà tràng pháo tay vẫn chưa chấm dứt. Bọn trẻ ồn ào bàn tán, so sánh bầu Nga với cô đào chánh gánh Bầu Kim. Chúng đang xôn xao, bỗng cánh màn hé mở, bé Nga choàng một chiếc khăn in hình cánh bướm dịu dàng tiến ra giữa sân khấu.

Bọn trẻ im lặng. Con bướm Nga chớp cánh trong một vũ khúc nhẹ nhàng, uyển chuyển. Con bướm lượn qua lươn lại, khi thì đảo cánh, khi thì chớp cánh, khi thì nghiêng mình lên một cội hoa tưởng tượng, khi thì tung bay chờn vờn trên ngọn cỏ cành cây.

Giữa lúc bướm đang mê say trong vũ khúc và bọn trẻ đang thả mộng hồn trong một khung cảnh thần tiên, một tiếng gọi to từ trong nhà vọng ra:

- Nga ơi, vào mẹ biểu, con.

- Chết cha, bà Cả về rồi.

Thằng Keo nhanh trí nói:

- Chắc ông Cả cũng về rồi. Chúng mình rút lui mau.

Nó vừa nói vừa kéo cả bọn chuồn ra ngõ sau vườn. Con bươm bướm hoảng hồn quăng cánh chạy theo:

- Keo ơi, chờ Nga theo với!

*

Liên tiếp mấy tuần, câu chuyện "Con bươm bướm hoảng hồn quăng cánh cùng đoàn nữ binh chạy có cờ" là đầu đề thời sự nóng hổi đầy thú vị của bọn học sinh tinh nghịch. Mỗi lần nghe chúng trêu ghẹo, Nga bẽn lẽn đỏ mặt, chỉ còn biết đưa mắt cầu cứu với Keo. Thằng Keo biết ý càng trêu thêm:

- Để mình phải hỏi lại thầy.

- Hỏi gì mậy?

Keo cười hóm hỉnh:

- Hỏi coi bà Trưng có hóa bướm hay không?

Lũ trẻ lại được dịp reo lên làm Nga và bọn con gái giận dỗi bỏ đi.

Vài hôm sau, bọn trẻ lại chuyền tay nhau một tấm chương trình vô cùng hấp dẫn:

Gánh hát bội cải cách

BẦU KEO

Toàn Nam Ban

Vào ngày lễ Phục Sinh, tại lớp Nhì trường tiểu học đúng 9 giờ sáng, bổn ban long trọng khai trương vở tuồng đầy hỉ, nộ, ái, ố:

TAM KHÍ CHÂU DU

Đánh võ Tàu - Hộc máu thiệt.

Bổn ban kính thỉnh

Toàn nam ban Bầu Keo gồm có thằng Mẹo, thằng Mít, thằng Rô, thằng Nhái, thằng Sáu và thằng Keo. Cuộc phân công rất hoàn bị. Thằng Keo làm thầy tuồng vừa đóng vai chính. Thằng Rô, thằng Sáu giả gái. Thằng Nhái cầm cờ chạy hiệu. Thằng Mít thủ vai Khổng Minh. Ban nhạc gồm có thằng Tửng đánh trống, thằng Tư đánh chụp chỏa theo điệu nhạc bắc cấu của Trung Hoa.

Đúng chín giờ, khán giả tí hon đã bu đầy cả lớp, trong ấy có cả bọn Nga. Chúng cười đùa, bàn tán xôn xao. Vì là lớp học nên khán giả có băng ngồi và sân khấu cũng được trang bị đàng hoàng hơn.

Tiếng trống, tiếng chụp chỏa vang lên từng chập. Khi dàn nhạc ngưng hòa tấu, ba hồi chuông cà rem rung lên lanh lảnh. Khán giả đều im lặng chờ đợi...

Điệu nhạc bắc cấu giả lại nổi lên. Từ hậu trường, hai tên quân chạy ra đứng hai bên, chờ đợi chủ tướng. Với dáng điệu oai phong lẫm liệt, Châu Du từ từ tiến ra, chân bước nhịp nhàng theo điệu nhạc.

Nga kéo con Liên nói nhỏ:

- Anh Keo đó, để lát nữa coi ảnh hộc máu.

Con Liên toan nói, bỗng nghe tiếng "suỵt, suỵt" gần đó, nó đành lặng im, mày nhíu lại lộ vẻ bực tức.

Trên sân khấu, Châu Du đầu đội mão kim khôi bằng lá mít, gắn hai bông lau làm lông trĩ. Mặt trắng toát và môi đỏ như thoa son. Mình mặc áo ngắn, buộc chiếc khăn màu sặc sỡ ngang lưng, buông xõa hai khăn xuống tận gối.

Châu Du múa vài điệu theo nhịp trống dồn dập rồi cất giọng hùng hồn nói lối theo giọng xuân:

"Trấn lục khẩu vang danh Lũng quận,

Thống hùng sư oai chấn Đông Ngô.

Thủ Sài Tang bát thập nhứt châu.

Quyền Đô đốc tánh Châu Công Cẩn.

Võ rõ thông tám trận,

Văn lão thuộc binh thơ.

Chẳng nhường ai đầu ngựa cướp cờ,

Xem hào kiệt vô nhân địch ngã".

Chẳng hiểu học lóm được bổn tuồng của ai mà thằng Keo hát rất đúng điệu. Giọng nó sang sảng, thật đúng là giọng một tướng lãnh oai hùng. Con Tèo kề tai Nga khen nhỏ:

- Oai quá! Chẳng thua gì ông kép chánh bầu Kim.

Lúc Châu Du phá quân Tào Tháo trong một trận thủy chiến ghê hồn, đoàn quân Đông Ngô áp dụng lối đánh võ của các đoàn Sơn Đông mãi võ bán thuốc dán, đem lại cho khán giả một trận cười thích thú.

Đến lúc Châu Du tức khí vì lầm mưu Khổng Minh, thằng Keo thét lên một tiếng vô cùng tức tối, rồi từ miệng nó tuôn ra một dòng máu đỏ lòm. Mắt nó trợn lên, hai dòng máu trào xuống mép. Thật là ghê rợn!

Con Nga cúi đầu, không dám nhìn. Con Tèo níu tay nó, nói khẽ:

- Sợ gì chị, nó ngậm bông vang đó.

Nga cũng biết như vậy, nhưng nó vẫn thấy rờn rợn thế nào ấy. Giữa lúc đó, từ phía khán giả có tiếng thét to lấn át cả tiếng thét của Châu Du:

- Chết cha! Mày làm mực đỏ lem cả áo và khăn của ba tao rồi.

Thằng Keo giật mình nhìn xuống, thấy chiếc áo đang mặc và chiếc khăn buộc ngang lưng vấy màu đỏ lòm. Nó quên mình đang đóng vai vị Đô đốc Đông Ngô, vội phân trần với bạn:

- Không sao, tao sẽ giặt sạch rồi trả cho mầy.

Khán giả cười rộ lên. Châu Du mắc cỡ rút lui vào hậu trường giữa những tiếng la ó gần vỡ rạp...

*

Sáng hôm sau, lớp Nhì trường tiểu học chia làm hai phe công kích nhau dữ dội: phe bầu Nga và phe bầu Keo.

Lúc đầu chúng chỉ bàn tán, thảo luận rất văn nghệ. Thằng Tửng nói:

- Bầu Nga hát hay nhưng con Tèo và con Lặc làm tì nữ dở tệ. In là hai hình nộm.

Con Tèo tức mình trả đũa:

- Bầu Keo khá đấy, nhưng thằng Nhái và thằng Mẹo cầm cờ chạy hiệu lãng òm.

Thằng Nhái nổi giận:

- Trưng Trắc gì mà hóa bướm! Ê! Ê!

Con Lặc cũng không vừa:

- Châu Du gì mà mãi võ bán thuốc dán? Ê! Ê!

Cuộc cãi vã đã trở nên sôi động. Keo và Nga muốn ngăn các bạn, nhưng không thể nào ngăn nổi nữa. Chúng đành ngồi làm cái đích cho bọn trẻ cãi nhau.

Thằng Mẹo bĩu môi chế nhạo:

- Bươm bướm gì quăng cánh chạy te! Hề! Hề!

Con Hợi cười to hóm hỉnh:

- Châu Du gì giặt áo! Hi! Hi!

Trận giặc miệng đã đến giai đoạn quyết liệt. Đã đến lúc chúng không còn nhân nhượng nhau nữa. Cuộc cãi vã đã mất hẳn tính văn nghệ để biến thành một cuộc chửi lộn loạn xị, thô lỗ, thật đúng là trận giặc trẻ con.

Bọn con trai đồng thanh la to:

- Bầu Nga ăn cứt gà... Bầu Nga ăn cứt gà...

Bọn con gái cũng không nhịn:

- Bầu Keo ăn cứt mèo... Bầu Keo ăn cứt mèo...

Giữa lúc đó, tiếng trống trường vang lên báo hiệu tới giờ học. Tiếng giày bố lẹp xẹp của thầy giáo làm cho bọn trẻ im thin thít. Nga gục đầu xuống bàn, khóc nức nở, trong lúc thằng Keo chau mày buồn xo.

Thầy vào lớp. Bọn trẻ đứng lên một loạt, chỉ trừ Nga vẫn úp mặt xuống bàn thút thít, trong lúc thằng Keo cũng âu sầu.

Thầy ngạc nhiên gọi:

- Nga, lên thầy bảo.

Nga đứng dậy, mặt tràn trề nước mắt. Nó từ từ tiến lên bàn thầy. Thầy dịu dàng hỏi:

- Sao con khóc?

Nga vừa thút thít vừa trả lời:

- Dạ, mấy trò nói con ăn...

Nga mắc cỡ lặng thinh. Thầy hỏi gặn:

- Ăn gì?

- Dạ, ăn cứt gà.

Thầy cố giấu nụ cười, mặt làm ra vẻ giận dữ nhìn xuống lớp:

- Trò nào nói bậy như thế?

Cả lớp lặng im. Một phút nặng nề trôi qua. Thằng Keo bỗng đứng lên, đáp khẽ:

- Dạ, con.

Thầy quát to:

- Trưa nay, trò Keo ở lại một giờ nhổ cỏ, nghe chưa?

Không đợi Keo đáp, thầy dịu dàng giảng giải:

- Bạn học một lớp phải biết đoàn kết và thương yêu lẫn nhau. Từ nay thầy không muốn thấy các trò tái phạm lỗi lầm của trò Keo. Thật là một lỗi lầm đáng xấu hổ!

Keo cúi đầu, chịu đựng. Nga nhìn Keo mắt ráo hoảnh, lòng cảm động bồi hồi.

Trưa hôm ấy, trong khi các bạn lặng lẽ ra về, Keo ở lại trường để làm cái cực hình nhổ cỏ bồn hoa giữa sân trường. Nó bứt từng cội cỏ, tai như còn vẳng nghe lời khuyên nhủ của thầy. Lòng nó nặng trĩu. Nó không xấu hổ, nó không hờn giận bạn, nó chỉ biết trách mình, đã không biết đoàn kết và thương nhau. Keo đang nghĩ ngợi, bỗng nghe có tiếng nhỏ nhẹ:

- Anh Keo!

Keo ngoảnh lại, thấy Nga ngồi sau lưng mình đôi mắt còn đỏ hoe. Nga vừa nhổ cỏ với Keo vừa ngập ngừng hỏi:

- Keo có giận Nga không?

Keo ngạc nhiên nhìn bạn, lòng nó tràn ngập một niềm sung sướng. Nó lặp lại như một cái máy:

- Nga có giận Keo không?

Thẩm Thệ Hà

(Loại sách Hồng,
Nhà xuất bản Sống Mới
1968-1969)

 

Thứ Tư, 11 tháng 6, 2025

Gia Đình Tí Kiến


 
 
 
 
 
 
 
Hôm nay trời nắng
Nhà kiến đi chơi
Trông rất đông vui
Gia đình Tí kiến.
 
Trước là kể đến
Kiến ông, kiến bà
Kiến mẹ, kiến cha
Kiến anh, kiến chị.
 
Kiến dâu, kiến rể
Kiến cháu lau tau
Chạy trước chạy sau
Nói cười hí hửng.
 
Đi chơi từ sáng
Ai cũng thỏa thuê 
Đến lúc quay về
Không còn tiếc rẻ
 
Cả nhà vui vẻ
Chẳng thấy mệt chi
Riêng kiến lỏi tì
Ngủ gà ngủ gật.
 
Trên con đường đất
Quen thuộc xưa nay
Về đến quãng này
Ô hay! Lạ quá.
 
Bỗng dưng lại có
Vũng nước chạy dài
Ngăn đường làm hai
Sao mà đi được.
 
Kiến cha rảo bước
Nhìn tới ngó lui
Lắc đầu thở dài
Vì bên đường vẫn
 
Hai ao nước bẩn
Giờ đến đường đi
Cũng có nước thì
Còn đâu lối nữa!
 
"Chắc phen này bỏ
"Chốn cũ, nơi xưa!"
Kiến ông nãy giờ
Trầm ngâm suy nghỉ:
 
"Không, ta không thể
"Lìa bỏ quê nhà
"Bao đời ông cha
"Ra công gây dựng.
 
"Lòng ta phải vững
"Vượt cơn khó này
"Dòng nước chắn đây
"Cũng không rộng lắm
 
Ai mà khỏe khoắn
Hẳn bơi được qua
Vậy họ nhà ta
Rất là có thể
 
Cứ lớn dỉu bé
Kết liền bên nhau
Ắt vượt dòng sâu
Rồi ông ra lệnh:
 
Kiến nào khỏe mạnh
Đều xếp hàng đầu
Yếu bé nối sau
Vững tâm lội nước.
 
Ông cùng toán trước
Bơi kéo cả bè
Sang bờ bên kia
Bình an vô sự.
 
Tuy có mệt đứ
Nhưng một lúc rồi
Khô ráo tỉnh người
Trở về quê quán.
 
              TRẦN THỊ TUỆ MAI 
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 125, ra ngày 1-6-1974)
 

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2025

Chỗ Ngồi Trên Xe

 Các em thân mến,

Một thiếu nhi viết đến chúng tôi: Chúng cháu có dịp đi trên xe hơi. Những lúc ấy, chúng cháu bối rối không biết ngồi nơi nào cho phải lẽ vì chúng cháu nghe hình như trên chiếc xe mỗi chỗ ngồi đều có một giá trị riêng của nó. Chúng cháu xin bác vui lòng chỉ bảo giúp chúng cháu.

Các em thân mến,

Thật đúng như lời các em đã bày tỏ, mỗi chỗ ngồi trên chiếc xe được sắp xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau.

Chắc các em cũng rõ những xe hơi thông dụng trong mọi gia đình, mà chúng ta thường gọi là xe du lịch, có hai băng ghế ngồi: băng trước và băng sau. Chỗ ngồi quan trọng trên chiếc xe ở băng ghế sau và nơi bên tay mặt. Chỗ này được xem tốt nhất vì nó ở gần nơi lên xuống, bên cạnh lề đường, rất thuận tiện mỗi khi lên xuống.

Khi người lái xe là chủ chiếc xe và trên xe có một người phụ nữ, người phụ nữ được quyền ngồi phía trước cạnh người lái xe. Các em nên nhớ trong trường hợp này, chỗ ngồi bên cạnh người lái xe là chỗ ngồi đặc biệt hơn hết. Nếu người chồng lái xe, người vợ có thể nhường chỗ ngồi cạnh chồng với sự đồng ý của chồng, cho người bạn thân của chồng mình.

Nếu trên xe chỉ có hai người đàn ông và hai người đàn bà, hai ông nên đến mở cửa xe mời hai bà lên băng ghế sau rồi hãy đến ngồi phía trước.

Gần đây, chúng tôi thấy rất nhiều phụ nữ lái xe chạy trong thành phố. Trong trường hợp đó, nếu trên chiếc xe, ngoài người lái xe, chỉ có một người phụ nữ, người phụ nữ này ngồi ở phía trước và dành phía sau cho nam giới. Cũng trong trường hợp đó, người đàn ông lịch sự lại phải đến mở cửa mời phụ nữ lên xe và tự mở cửa xe cho chính mình. Người phụ nữ lái xe khôn khéo cũng không nên để người đàn ông phải cực nhọc chạy vòng quanh chiếc xe mở ba cánh cửa một lượt, nên tự mở cửa xe bước lên trước, sau khi mời khách lên xe.

Mỗi khi lên xe, các em nhường chỗ cho người lớn vào trước và mỗi khi bước xuống, các em nên xuống trước để giúp đỡ những người trên: như cầm hộ đồ đạc, dìu dắt người già cả.

Gặp người quen có lòng tốt cho các em đi nhờ trên xe, khi bước lên xe, các em nên chọn chỗ nào kém quan trọng nhất mà ngồi, ngoại trừ trường hợp người chủ xe chỉ định chỗ ngồi hoặc mời các em ngồi cạnh họ, như vậy các em mới thật là con người lịch sự.

Chúng tôi tin rằng các em thiếu nhi chúng mình lúc nào cũng lịch sự, phải không các em.

 
Thân mến chào các em,         
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG    

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 83, ra ngày 1-4-1973)

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

Vết Hằn Trên Đá


Ranu học mà chẳng hiểu tí gì cả. Những giòng chữ trên trang giấy như nhảy nhót trước mắt, không chịu nhập vào khối óc mù đặc của cậu. Chẳng phải tại Ranu lười biếng đâu. Trái lại! Trong đám trẻ con đến thụ huấn Maharadja - thầy đồ khả kính - Ranu là cậu học trò chăm chỉ nhất. Cậu học ngày học đêm, mải miết với sách vở.
 
Nhưng khối óc của Ranu cứ như đá cứng, khó lòng ghi khắc vào được nét chữ nào.
 
Vì thế đã mấy năm tới trường theo học, mà chữ thầy đành trả cho thầy. Thấy Ranu đã mười hai tuổi, thầy đồ liền kêu lại bảo:
 
- Cha mẹ con giao phó con cho thầy thấm thoát đã mấy năm rồi. Thầy đã cố công dạy bảo con. Phần con, con cũng hết sức cố gắng. Nhưng xem ra chẳng có kết quả gì. Trí óc con kém cỏi quá đến nỗi học hoài mà không lĩnh hội nổi những lời thầy chỉ dạy, không đọc nổi một giòng chữ.
 
Thầy nghĩ có lẽ Thượng đế muốn đặt con vào hạng người mạnh chân khỏe tay, chứ không phải là hạng người thông minh trí tuệ. Vì thế ngài mới để cho con có khối óc cứng rắn như đá. Theo ý thầy con chẳng nên nán lại ở đây làm gì nữa. Ngày mai con hãy lên đường trở về làng. Thầy sẽ cho con một ít gạo rang làm lương khô ăn dọc đường. Thôi con sửa soạn đi để mai lên đường cho sớm.
 
Ranu buồn bã đứng lên chắp hai tay lên ngang mắt kính cẩn chào thầy rồi trở ra.
 
Hôm sau Ranu lên đường. Trên đường trở về quê cũ, Ranu thấy nghẹn ngào, cổ họng như bị tắc lại. Thỉnh thoảng nước mắt trào ra, lăn dài trên má. Cậu gạt nước mắt bước đi, lòng ngậm ngùi, tan tác. Bọc hành lý trong có đựng ít gạo rang lủng lẳng bên sườn, lâu lâu phải kéo về phía sau cho đỡ vướng. Theo nhịp chân bước, đầu óc Ranu vang lên câu nói: "Rắn như đá... Rắn như đá..."
 
Trời nóng ngột ngạt, tiếng côn trùng vo ve trong bầu không khí nặng nề, Ranu vẫn bước đều.
 
Ngày thứ nhất, Ranu đi qua các thôn xóm đầy bụi, băng đồi, vượt suối, cho tới chiều mới lấy gạo rang ra trộn với nước ngồi ăn và ngủ một giấc dưới vòm trời đầy sao.
 
Ngày thứ hai, đôi chân Ranu bắt đầu mỏi. Cậu bước đi từng bước ngắn và luôn luôn ngồi nghỉ. Trên mặt Ranu, những vết bụi quệt dài, lem luốc. Tới trưa, Ranu đã thấy đói, tính lấy gạo ra ăn, thì chợt xa xa thấy có một hồ nước, chung quanh hồ có những bóng dừa phủ mát. Lần theo lối đi bị cỏ lau mọc đầy che khuất, Ranu tiến tới một ngôi dinh thự đổ nát. Nhiều thềm đá nối tòa lâu đài xuống hồ nước. Ranu ngồi xuống một bực thềm, đã nứt nẻ nhiều chỗ. Cậu lấy gạo trong bọc ra và bỗng để ý thấy trên thềm đá có nhiều vết trũng tròn sâu trên mặt đá.
 
Ranu thầm nghĩ:
 
- Vị vua chúa nào ngày xưa ở đây thật có lòng nhân hậu. Chắc hẳn vị đó đã cho đẽo những hũng đá này để cho các khách bộ hành qua đây lấy chỗ ăn uống nghỉ ngơi.
 
Nghĩ thế, Ranu liền vốc nước hồ lên lên một chỗ trũng rồi đổ gạo rang vào trộn cho dỏe để ăn. Ăn xong, Ranu thấy mệt mỏi. Lần đầu tiên trong đời Ranu cảm thấy lười biếng. Cậu tìm một bóng mát nằm ngủ. Vừa thiu thiu, chợt nghe có tiếng cười nói từ xa xa đến gần. Mở mắt ra nhìn thấy có ba thiếu nữ, mỗi cô ôm một chiếc vò tới hồ múc nước. Ranu lễ phép chào và hỏi:
 
- Thưa các chị, tòa lâu đài ngày xưa kia là của ai vậy?
 
Ba cô gái đáp:
 
- Chúng tôi không biết. Ngay cả cụ cố chúng tôi cũng không nhớ rõ xưa kia vị vua chúa nào đã ở đây. Cứ xem những tường xiêu, vách nát, những lối đi cỏ mọc rêu phong như thế kia cũng đủ hiểu cung điện này hoang phế đã lâu đời rồi. Không ai vào đây làm gì, trừ có bọn thiếu nữ chúng tôi đến đây lấy nước.
 
Vừa nói, các cô gái vừa múc nước vào đầy vò, rồi nhắc lên ngang hông, sửa soạn quay trở về làng.
 
Ranu nói:
 
- Ông hoàng này, chắc phải giàu có lắm, và cũng có lòng nhân hậu nữa.
 
Ba cô gái ngừng lại, hỏi:
 
- Tại sao?
 
- Tại ông ta đã nghĩ đến những kẻ bộ hành tới đây nghỉ chân, bên bờ hồ này. Đây các chị xem, ông đã cho đẽo sẵn những lỗ trũng này trên thềm đá rất tiện dùng để ăn uống.
 
Nghe Ranu nói như vậy cả ba ci6 gái phá lên cười rũ rượi.
 
- Cậu nhỏ ơi, cậu thật ngu tối nên mới có thể nghĩ như vậy được! Những vết trũng mà cậu tưởng là chỗ để dọn thức ăn, chẳng phải do ai mất công đẽo ra cả. Đấy chỉ là những vết chân vò, trải bao thế hệ, do chị em phụ nữ chúng tôi ra đây lấy nước, đặt lên đã làm trũng xuống thành từng khoanh tròn như thế đó. Cậu không nhớ câu "nước chảy đá mòn" ư? Với thời gian, đá dù cứng đến mấy đi nữa cũng có thể mòn đi được.
 
Nói đoạn, các cô gái cười ngặt nghẹo quay đi, để mặc Ranu ngồi một mình trầm ngâm suy nghĩ.
 
Cậu bé thầm nhủ:
 
- Ta vẫn tưởng trí óc ta rắn như đá, không học hành gì được. Nhưng cứ xem như phiến đá này, tuy rắn mà vẫn bị trũng xuống thành vết. như vậy thì trí óc ta dù có cứng rắn như đá đi nữa cũng có thể ghi khắc những điều học hỏi được. Miễn là ta cố công nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần, hàng ngàn lần một bài học, cũng như những người con gái kia, đã đặt vò nước trên thềm đá, ngày này qua ngày khác, nhắc đi nhắc lại một cử chỉ, khiến mặt đá phẳng lì đã phải trũng xuống.
 
Nghĩ ra điều ấy, Ranu cảm thấy phấn khởi. Cậu đứng ngay lên, quay trở về đường cũ. Ranu đi ròng rã ngày đêm quên cả mệt nhọc. Và khi tới trường, cậu vào năn nỉ với thầy. Ông thầy trước lòng quyết tâm, kiên trì của cậu, đành nhận lời, thử lần nữa xem sao.
 
Ranu dùi mài năm này qua năm khác, những năm cố gắng đầy cực nhọc... Nhưng rồi Ranu đã trở nên một nhà thông thái, và đã viết ra một bộ văn phạm đặc biệt dành cho những đứa trẻ có bộ óc quá cứng rắn. Bộ sách ấy, trải hai ngàn năm, nay vẫn còn được dùng ở Ấn độ.
 
 
XUÂN VŨ       
 
(Trích từ tuyển tập truyện ngắn Tuổi Hoa Thú Quê)
 

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2025

Buổi Chiều Có Mây

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Trong trái tim có một khung vừa mở
Nghe lao xao làm rối cả tơ mềm.
Em chớp mắt, như vừa ngừng hơi thở.
Thoáng nhạc buồn thật yểu điệu thật êm
 
Lỡ ngày mai trên đường em đi học.
Lá rụng vàng cho ngại bước nhỏ nhoi.
Gió sẽ thổi cho rối tung rèm tóc.
Em có cúi đầu cắn nhẹ vành môi.
 
Trái gì xanh trên đầu tay ngọc bích.
Em thấy thương muốn ấp ủ vào lòng.
Nhưng em sợ thời gian dần xê dịch.
Trái sẽ thành một sầu héo mênh mông.
 
Em không muốn hồn đau như lá úa
Nụ yêu thương thả từng giọt nồng nàn.
Rồi tất cả theo tháng ngày lần lữa.
Vụt mất đi như thể mây bay ngang.
 
                              LÊ NGUYỄN MAI TRẮNG

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 27, ra ngày 5-6-1972)

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

Công Chúa Gắt Gỏng


Nhân vật:
 
VŨ BẰNG : Đứa bé trai mang rau cải xuống nhà bếp của lâu đài nhà vua
 
LAN ĐÀI : Em của Vũ Bằng, cũng mang rau cải 
 
NHÀ VUA ; Chủ lâu đài
 
HOÀNG HẬU.
 
CÔNG CHÚA YẾN NHI.
 
LÊ ĐOAN : Một vị giáo sư già dạy công chúa Yến Nhi làm toán
 
BÀ CẨM TÚ VÀ CÔ HOA : Cô giáo của công chúa Yến Nhi
 
BÀ VÚ : Người coi sóc công chúa
 
HẦU CẬN.
 
Quang cảnh : Phòng ngủ của Công Chúa Yến Nhi, đồ chơi và sách để khắp nơi.
 
 
HỒI I
 
(Vũ Bằng và Lan Đài từ bên trái căn phòng công chúa bước vào)
 
VŨ BẰNG (ra hiệu) : Lại đây anh nói cái này nè Lan Đài, em đã thấy rõ căn phòng nầy chưa? Có thể nói đồ chơi ở đây nhiều hơn cả một tiệm bán ở ngoài thành.
 
LAN ĐÀI : Vâng, thật vĩ đại (đưa mắt nhìn những con búp bê rồi la lên) Ồ! Xem những con búp bê kia kìa, lớn có, nhỏ có, có tới cả chục tá búp bê lận.
 
VŨ BẰNG : Còn những thứ đồ chơi khác nữa chớ, nào gấu bông nè, cờ nè, giầy trượt tuyết, xe trượt nữa nè.
 
LAN ĐÀI (chạy tới tủ đựng sách) : Còn nữa, nhiều nhất là sách nè. Vũ Bằng, anh tới coi, công chúa Yến Nhi đọc sách nhiều quá.
 
VŨ BẰNG (lấy một quyển sách mở ra xem) : Đây là quyển sách nói về hải tặc và cuộc chôn giấu kho tàng.
 
LAN ĐÀI : Nhiều sách quá, nếu em mượn một cuốn, anh ngĩ là công chúa có phiền không?
 
VŨ BẰNG : Nếu mượn làm sao chúng ta trả lại. Bổn phận của chúng ta là mang rau cải xuống nhà bếp, chớ đâu phải đi lang thang quanh lâu đài, nếu mà bà bếp bả bắt gặp, chúng ta sẽ bị ăn đòn. Tốt hơn chúng ta ra khỏi phòng công chúa đi.
 
(Có tiếng chân đi tới)
 
LAN ĐÀI : Thôi trễ quá rồi! Có người sắp đến đây, làm sao bây giờ?
 
VŨ BẰNG : Đừng hấp tấp, chúng ta hãy trốn dưới gầm giường đi.
 
LAN ĐÀI : Ở dưới gầm giường à?
 
VŨ BẰNG : Chớ sao! Nhờ tấm chăn giường che khuất họ không thấy anh em mình đâu, nhanh lên, chui xuống đi, nếu không họ thấy bây giờ.
 
(Vũ Bằng và Lan Đài vừa chui xuống gầm giường thì công chúa Yến Nhi và bà vú bưng thức ăn bước vào)
 
YẾN NHI : Tôi đã bảo vú là tôi không ăn mà, tôi không ăn vú đừng có ép tôi.
 
BÀ VÚ : Công chúa Yến Nhi! Công chúa sao vậy? Công chứa bao giờ có lời nói cộc cằn gắt gỏng như thế.
 
YẾN NHI : Tôi xin lỗi vú.
 
BÀ VÚ : Công chúa chịu khó ăn các thức ăn ngon này đi.
 
YẾN NHI : Tôi không đói.
 
BÀ VÚ : Thế thì tôi để thức ăn trên bàn, lát nữa nếu đói thì công chúa lấy ăn. Bây giờ công chúa để tôi chải tóc lại cho công chúa vì gần tới giờ học toán rồi.
 
YẾN NHI : Tôi không muốn học toán nữa, tôi mệt quá.
 
BÀ VÚ : Đừng có làm nũng, công chúa phải học toán, nếu không công chúa sẽ không biết cộng và trừ.
 
(Người hầu cận bước vào)
 
HẦU CẬN : Có ông Lê Đoan đến (nói xong tên hầu cận cúi chào rồi lui ra)
 
(Ông Lê Đoan Giáo Sư toán bước vào)
 
BÀ VÚ : Đây là thầy giáo của công chúa, công chúa hãy sửa soạn đồ học đi: Cây viết chì bạc và quyển sách bọc vàng của công chúa đâu rồi?
 
YẾN NHI : Tôi liệng nó qua cửa sổ rồi (lấy tay chỉ qua cửa sổ).
 
BÀ VÚ : Thế thì công chúa dùng viết chì cây và quyển sách thường vậy. (Cầm viết chì và sách)
 
YẾN NHI (khoanh tay lại) : Tôi không muốn viết, tôi không thích làm việc với mấy con số.
 
BÀ VÚ : Không thể được, giáo sư hãy bắt đầu dạy công chúa đi.
 
(Bà Vú đi ra)
 
LÊ ĐOAN : Chào Công Chúa Yến nhi, Công Chúa hãy mở sách toán trang hai đi.
 
YẾN NHI : Trang hai à! Làm sao tôi lật được trang hai.
 
LÊ ĐOAN : Thế thì công chúa hãy làm thử bài toán cộng là công chúa biết lật trang 2 liền, đây là bài toán : Nếu Hoàng Tử Anh Tú có sẵn một cái chuông kim cương mà má cậu ta cho thêm một cái nữa thì hỏi cậu ấy có tất cả mấy cái chuông kim cương?
 
YẾN NHI : Làm sao tôi biết được, tôi chưa bao giờ nghe nói đến hoàng tử Anh Tú.
 
LÊ ĐOAN (đập viết chì lên quyển sách) : Trả lời câu hỏi, làm ơn trả lời câu hỏi.
 
YẾN NHI : Rất dễ, có tất cả hai mươi cái chuông kim cương.
 
LÊ ĐOAN (trợn mắt) : Hai mươi cái?
 
YẾN NHI : Chớ sao, tôi có hai mươi cái thì hoàng tử Anh Tú tại sao không thể có hai mươi cái chuông kim cương. 
 
LÊ ĐOAN : Trời ơi! Một với một là mấy?
 
YẾN NHI (ngáp dài) : Ba!
 
LÊ ĐOAN : Là ba à?
 
YẾN NHI : Phải, là ba.
 
LÊ ĐOAN : Không được, một với một là hai! Là Hai!
 
YẾN NHI : Tôi nói một với một là ba. Tôi là công chúa, tôi ra lệnh một với một là ba, ông nghe chưa?
 
(Nhà Vua và Hoàng Hậu bước vào)
 
NHÀ VUA : Chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy Yến Nhi? Con không thể ra lệnh một với một là ba được.
 
HOÀNG HẬU : Một với một là hai, Yến Nhi dễ thương, ai ai cũng nói là hai con à.
 
NHÀ VUA : Ông Lê Đoan, tôi nghĩ ông là giáo sư giỏi nhất nước.
 
LÊ ĐOAN : Vâng thưa bệ hạ...
 
NHÀ VUA : Thế thì tại sao công chúa lại nói, một với một là ba. Bất cứ ai cũng biết điều đó sai.
 
LÊ ĐOAN : Bất cứ ai cũng biết nhưng công chúa không biết.
 
HOÀNG HẬU : Không biết à? 
 
LÊ ĐOAN : Vâng, thưa không biết (mở một quyển sổ nhỏ ra) ngày thứ hai zero điểm, ngày thứ ba zero điểm, ngày thứ tư zero điểm, ngày thứ năm...
 
HOÀNG HẬU : Thôi, thôi, dừng lại!
 
NHÀ VUA : Ông Lê Đoan, chúng ta sẽ bàn chuyện này sau, bây giờ giáo sư về, ngày mai lại.
 
LÊ ĐOAN : Vâng, thưa bệ hạ.
 
(Ông Lê Đoan đi ra)
 
NHÀ VUA : Yến Nhi! Buồn thay, một công chúa mà không biết làm tính cộng.
 
YẾN NHI : Con không cần.
 
HOÀNG HẬU : Không được Yến Nhi, con phải cần đến tính cộng.
 
(Hầu cận bước vào)
 
HẦU CẬN : Tâu bệ hạ! Viên giáo sư dạy cỡi ngựa đang đợi công chúa đến học.
 
NHÀ VUA : Tốt lắm. Yến Nhi, con ra học đi.
 
YẾN NHI : Vâng, thưa cha.
 
(Yến Nhi lui ra)
 
HOÀNG HẬU : Nếu Yến nhi dở toán, thì các môn khác của nó ra sao?
 
NHÀ VUA : Chúng ta sẽ biết. Ê! Hầu cận.
 
(Hầu cận bước vào)
 
HẦU CẬN : Tâu bệ hạ có điều chi? 
 
NHÀ VUA : Gọi các vị giáo sư đến đây.
 
HẦU CẬN : Tâu vâng (gọi lớn) mời các vị giáo sư đến triều kiến bệ hạ.
 
(bà Cẩm Tú và cô Hoa bước vào)
 
NHÀ VUA : Cô Hoa, cô dạy công chúa đánh vần, công việc ra sao?
 
CÔ HOA : Tâu bệ hạ. Tôi đã cố gắng.
 
NHÀ VUA : Công chúa được mấy điểm?
 
Cô HOA  (mở sách ra lật mấy tờ) : Thứ hai zero điểm, thứ ba zero điểm, thứ tư zero điểm, thứ năm ze...
 
HOÀNG HẬU : Thôi dừng lại, dừng lại. Tới phiên bà Cẩm Tú dạy công chúa viết, công việc ra sao?
 
BÀ CẨM TÚ : Tâu bệ hạ và hoàng hậu, tôi không thể dạy công chúa được.
 
NHÀ VUA : Không thể, sao vậy?
 
CẨM TÚ : Thứ hai công chúa liệng viết vào tôi, thứ ba công chúa liệng bình mực, thứ tư...
 
HOÀNG HẬU : Dừng lại đi, tôi không muốn nghe nữa.
 
NHÀ VUA : Hầu cận, mi hãy dẫn mấy vị giáo sư này đến vị quản thủ tiền công, nói rằng ta bảo phát cho mỗi vị một miếng vàng thừa, họ chỉ đáng được thứ đó.
 
HẦU CẬN : Vâng.
 
(các giáo sư và hầu cận ra đi)
 
HOÀNG HẬU (khóc) : Chúng ta phải làm cái gì bây giờ, Yến Nhi con ta sẽ ra sao?
 
NHÀ VUA (đi lên đi xuống, hai tay ra dấu chán nản) : Zero, zero, môn nào cũng toàn ra zero, một con bé không biết gì cả.
 
HOÀNG HẬU : Và tại sao con chúng ta lại quá ư gắt gỏng. Có ai mà nói đến một công chúa gắt gỏng bao giờ đâu.
 
NHÀ VUA : Thật đáng sợ cho con tôi, được rồi, tôi sẽ chịu mất một túi vàng để biết nguyên nhân sự gắt gỏng của con chúng ta.
 
(hầu cận bước vào)
 
HẦU CẬN : Tâu bệ hạ đã đến giờ chơi cờ.
 
NHÀ VUA : Tốt lắm!
 
(nhà vua và hàng hậu đi ra)
 
 
HỒI II
 
Vũ Bằng và Lan Đài chui ra khỏi gầm giường
 
LAN ĐÀI : Trời ơi! Công chúa Yến Nhi gắt gỏng và dở đến thế sao? Tôi tự hỏi nếu các công chúa khác đều làm vậy thì sao?
 
VŨ BẰNG (cao hứng diễn lại thái độ của công chúa) : Tôi ra lệnh một với một là ba. Oai thiệt!
 
LAN ĐÀI : Nhà vua nói sẽ cho một túi vàng ai mà tìm ra được nguyên nhân tật xấu của công chúa, chúng ta không biết gì về công chúa cả.
 
LAN ĐÀI : Má thường nói rằng khi đứa bé gắt gỏng thì luôn luôn hay cãi lý, và chúng thường khóc khi không có đủ không khí trong sạch.
 
VŨ BẰNG : Cô ta không phải là bé, hãy nhìn chung quanh, đồ chơi cả đống, vả lại cô ta có cỡi ngựa nữa mà.
 
LAN ĐÀI : Điều đó thì đúng (đi tới cái bàn), thức ăn của cô ta đây, nào rau cải, súp, bánh mì thịt, sữa, trái cây tươi, thức ăn của cô ta không có gì là dở cả.
 
VŨ BẰNG : Nhưng cô ta lại không ăn trong khi mọi thứ đều ngon cả chớ?
 
VŨ BẰNG (ăn vài miếng bánh mì) Ngon thiệt!
 
(Công chúa Yến Nhi bước vào)
 
YẾN NHI : Các bạn là ai? Anh kia, tại sao anh lại dám ăn đồ ăn của tôi thế?
 
LAN ĐÁI : Tôi là Lan Đài!
 
VŨ BẰNG : Còn tôi là Vũ Bằng! 
 
LAN ĐÀI : Chúng tôi đem rau cải xuống nhà bếp và tình cờ đi qua đây và... Ồ! Công chúa có nhiều vật đẹp quá.
 
YẾN NHI (kiêu hãnh) Dĩ nhiên!
 
VŨ BẰNG : Tôi thích mấy quyển sách nhứt, công chúa có thể đọc cho chúng tôi nghe không?
 
YẾN NHI : Không, tôi không muốn đọc.
 
VŨ BẰNG : Tôi nghĩ rằng công chúa có thể đọc.
 
YẾN NHI : Tôi là người đọc giỏi nhứt, không ai có thể đọc hơn tôi.
 
VŨ BẰNG : Thế thì công chúa đọc chuyện cướp bể này đi (hai tay cầm quyển sách đưa tới) tôi thích nghe chuyện này lắm.
 
YẾN NHI : Được (mở quyển sách ra) : tựa đề là... cây... g... ậy của cướp bể.
 
VŨ BẰNG : Cây gậy của cướp bể à? Tựa đề mang tên kỳ lạ thật.
 
LAN ĐÀI (nhìn vào quyển sách) :  Không phải, tựa đề là kho tàng của cướp bể cơ.
 
YẾN NHI (đóng sách lại) : Tôi không thích đọc.
 
VŨ BẰNG : Ơ!
 
LAN ĐÀI : Thế thì chúng ta chơi gì đi?
 
VŨ BẰNG : Hay lắm (cầm quả banh và cây gậy) Lan Đài hãy liệng quả banh còn công chúa thì đánh, ai đánh hụt thì thua.
 
YẾN NHI : Bằng lòng.
 
LAN ĐÀI : Sẵn sàng chưa (liệng quả banh và công chúa Yến Nhi đánh hụt)
 
VŨ BẰNG : Hụt rồi, thua một!
 
YẾN NHI : Tôi đánh không được vì Lan Dài liệng không đúng.
 
VŨ BẰNG : Công chúa đánh không được à?
 
YẾN NHI : Sao không được, tôi là người đánh giỏi nhứt mà!
 
 VŨ BẰNG : Công chúa đánh không được là tại vì công chúa dở chớ tại sao lại Lan Đài.
 
YẾN NHI : Sao anh dám nói là tôi đánh không được.
 
VŨ BẰNG : Bởi vì công chúa dở qua, công chúa đọc mà cũng sai, cái gì mà "cây gậy của cướp biển" ê, lêu lêu...
 
YẾN NHI : Anh là thằng con trai khó chịu, tôi sẽ nói với cha tôi giam anh vào ngục.
 
LAN ĐÀI : Còn lâu công chúa mới làm được.
 
YẾN NHI : Ai dám ngăn tôi chớ?
 
(nhà vua và hoàng hậu bước vào)
 
NHÀ VUA : Cái gì mà ồn ào vậy hả ?
 
YẾN NHI (chỉ Vũ Bằng) : Con muốn giam thằng bé này vào ngục!
 
NHÀ VUA : Con quên rồi sao Yến Nhi, nơi đó chứa rau cải của nhà bếp, không còn phòng nào cả.
 
HOÀNG HẬU : Con yêu, tại sao con muốn giam đứa bé đó vào ngục, nơi đó ẩm ướt và vắng lạnh.
 
YẾN NHI : Thế mới đáng cho nó. Nó dám nói rằng con dở, con không thể đánh banh (dậm chân) nó đáng sợ lắm, con không thích nó.
 
HOÀNG HẬU : Yến Nhi, sao con dữ quá vậy?
 
NHÀ VUA : Con sao vậy hả Yến Nhi?
 
LAN ĐÀI : Tâu bệ hạ, con biết nguyên nhân.
 
HOÀNG HẬU : Con biết à? Con hãy nói tại sao công chúa hay gắt gỏng.
 
NHÀ VUA : Và tại sao nó học dở quá.
 
LAN ĐÀI : Thưa vâng, con xin nói, cậu của con là anh Đại cũng y hệt như công chúa.
 
VŨ BẰNG (la lên) : Đúng rồi, cậu ta cũng gắt gỏng, hay dậm chân khi bực và cậu ấy có điểm xấu ở trường nữa, cho tới khi chúng ta tìm ra...
 
HOÀNG HẬU : Tìm ra cái gì? Cậu ấy bịnh à?
 
VŨ BẰNG : Thưa không, cậu ấy không bịnh gì cả.
 
LAN ĐÀI : Chúng con tìm ra là cậu ấy ngủ không đủ.
 
HOÀNG HẬU : Cái gì?
 
NHÀ VUA : Nhưng công chúa lên giường ngủ sớm mỗi tối mà.
 
VŨ BẰNG : Cậu Đại cũng đi ngủ sớm.
 
LAN ĐÀI : Tâu bệ hạ cậu ấy giả bộ ngủ, khi má cậu ấy đi khỏi, cậu ấy liền nhảy ra khỏi giường.
 
NHÀ VUA : Đúng rồi. Ê! Hầu cận.
 
(hầu cận bước vào)
 
NHÀ VUA : Gọi bà vú tới đây.
 
HẦU CẬN : Tâu vâng. (gọi lớn) Mời bà vú đến hầu bệ hạ.
 
(bà vú bước vào)
 
NHÀ VUA : Hôm qua công chúa ngủ mấy giờ?
 
BÀ VÚ : Tâu bệ hạ, rất trễ, vào lúc mười giờ tối, tôi có ghé vào phòng coi công chúa có ngủ yên không thì thấy công chúa đã thức dậy rồi.
 
HOÀNG HẬU : Lúc ấy nó làm gì?
 
BÀ VÚ : Dạ, công chúa đang chơi búp bê.
 
NHÀ VUA : Thế thì đêm hôm kia?
 
BÀ VÚ : Tâu bệ hạ, công chúa vẽ tranh.
 
HOÀNG HẬU : Thế thì đêm hôm kia nữa?
 
HẦU CẬN (đáp thay bà vú) : Tâu hoàng hậu, đêm hôm đó tôi sau khi săn sóc ngựa xong liền đi về ngủ, lúc đó lâu đài đã tối om chỉ trừ phòng của công chúa còn sáng.
 
HOÀNG HẬU (thở dài) : Chết thật, Yến Nhi!
 
YẾN NHI : Con không thích ngủ!
 
HOÀNG HẬU : Con đừng có bướng bỉnh, con biết là con đã có mấy con zero rồi không?
 
NHÀ VUA : Con biết luật lệ của xứ này chưa? Một luật lệ do chính tay ta viết. Ê, hầu cận, hãy đem sổ luật lệ đến đây (hầu cận đem một cuốn sổ to lớn đến), nhìn, Yến Nhi nhìn đây : Mỗi một người lớn phải ngủ được 8 tiếng một đêm. Còn các đứa trẻ nhỏ phải ngủ tối thiểu mười tiếng (nói mạnh) tối thiểu mười tiếng.
 
YẾN NHI : Con xin lỗi cha.
 
HOÀNG HẬU : Yến Nhi, con đã phạm luật, con sẽ bị trừng trị.
 
NHÀ VUA : Cha cấm con ăn kẹo trong ba ngày.
 
HOÀNG HẬU : Và con phải hứa rằng từ nay không dám đi ngủ trễ nữa.
 
YẾN NHI : Con xin hứa!
 
VŨ BẰNG : Còn việc công chúa chơi trò gì cũng dở, công chúa nên biết bất cứ ai muốn chơi giỏi cũng phải đi ngủ cả. Đó là bài luyện tập đầu tiên.
 
LAN ĐÀI : Nếu ngủ đủ công chúa sẽ không bị zero điểm nữa. Khi mệt nhọc công chúa sẽ không học gì được.
 
NHÀ VUA : Đúng, rất đúng.
 
HOÀNG HẬU : Sao con biết được nguyên nhân tật xấu của công chúa?
 
LAN ĐÀI : Thưa hoàng hậu con biết được là nhờ cậu Đại cũng đã từng làm vậy.
 
NHÀ VUA : Trời ơi! Thế mà tôi đã quên mất một điều quan trọng.
 
(nhà vua vội vã đi ra)
 
YẾN NHI : Má, nếu con đi ngủ sớm tối nay, thì ngày mai con có thể chơi với Vũ Bằng và Lan Đài không?
 
HOÀNG HẬU : Được chớ con!
 
YẾN NHI : Chúng ta sẽ chơi trên sân cỏ và tôi sẽ không đánh hụt nữa vì tôi sẽ đi ngủ sớm mỗi đêm.
 
(nhà vua hai tay cầm hai bịch vải lớn bước vào)
 
NHÀ VUA : Trẫm đã hứa sẽ ban thưởng cho ai biết được nguyên nhân tật xấu của công chúa, một vị vua không bao giờ thất hứa. Cả hai con đã biết câu trả lời vì thế cả hai sẽ được trọng thưởng. Đây trẫm thưởng cho cậu bé một túi vàng. Và một túi vàng nữa cho cô bé này!
 
LAN ĐÀI : Đội ơn bệ hạ.
 
VŨ BẰNG : Nhà vua muôn năm.
 
LAN ĐÀI : Còn hoàng hậu nữa anh Vũ Bằng, quên à?
 
VŨ BẰNG : Nhà vua muôn năm, hoàng hậu muôn năm.
 
LAN ĐÀI : Đừng có quên công chúa, công chúa giận đấy.
 
VŨ BẰNG (hô to) : Nhà vua muôn năm, hoàng hậu muôn năm, công chúa Yến Nhi muôn năm.
 
(Màn hạ từ từ)
 
VIỆT ĐIỂU       
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 124, ra ngày 1-5-1974) 
 
 
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>