Thứ Ba, 3 tháng 1, 2017

Thằng Cọp


Nhà tôi ở gần Tòa Thánh Tây Ninh. Hỏng biết có phải vì thâm nhiễm mùi… chùa, hay là tại “dốc lòng” tin theo điều thiện ác luân hồi mà tôi có ý nghĩ rằng: Kiếp trước có lẽ tôi ăn ở thất nhơn, ác đức, hoặc vụng đường tu, hoặc… sát nhân, cho nên kiếp nầy tôi… “khổ sở trăm bề”… Có ai thông cảm cho nỗi lòng của tôi chăng? Cái nỗi lòng lâm li, bi đát, cái nỗi lòng âu sầu, héo hắt, mắc cỡ, sượng sùng… Cái nỗi lòng u ẩn, bắt nguồn từ… cái tên cúng cơm của tôi. Hỡi những vị may mắn đã có những cái tên thật hoa mỹ, xinh đẹp xin hãy thông cảm cho cái thân tàn ma dại của tôi, mà đừng cười hì hì khi nghe tôi giới thiệu danh tánh: tôi tên là… Nguyễn văn Cọp… Ấy! Khoan khoan! Xin quí vị dừng chân. Đừng giật mình bỏ chạy như thế, thêm tủi lòng cho phận… đực rựa của tôi. Tuy tôi là Cọp, chứ tôi hỏng phải… cọp đâu. Tôi lành như con mèo. Sở dĩ tên tôi vậy là tại thân sinh tôi “sáng chế”. Biết làm sao hơn?... Chính vì không biết làm sao hơn đó, mà tôi đành… ôm nỗi hận lòng, ngậm ngùi, tan tác. Bạn dư biết mà… tôi xấu hổ vì cái tên quái quỉ đó không ít. Giá hồi xưa, lúc mới sinh, tôi biết nói, có lẽ tôi sẽ la lên, khi ba tôi đặt tên, là không bao giờ tôi chịu tên Cọp hùm… gì hết. Mang danh tánh ấy, trừ việc bất đắc dĩ là đi học, ngoài ra, tôi có dám đi đâu đâu bạn? Trời hỡi… Tôi chán nản ghê gớm… Bạn thử tưởng tượng giùm tôi, khi đang đi ngoài phố gặp thằng bạn, nó kêu um lên:

- Ê! Cọp! Cọp!...

Thiên hạ giật mình, hốt hoảng (?!) ngó lên, trong khi tôi vờ tỉnh không thèm ơi hỡi gì thằng bạn hết. Thế rồi nó càng gọi to lên mới chết chứ!... Khổ ơi là khổ… Bởi vì lẽ đó, mà dù là con trai, tôi rất ít… đi lông bông chơi như lũ bạn bè. Ở nhà cũng không được thảnh thơi, tự nhiên đâu nhé. Tôi kỵ nhất là khách khứa lại nhà, mỗi khi bà con hoặc người lạ đến là tôi cút mất. Tôi ghét kinh khủng mỗi khi có người hỏi:

- Cháu đây con chị hả?

Và má tôi trả lời:

- Dạ! Thằng Cọp tôi đó chị.

Trong khi tôi khổ sở, nhìn má, thì bà khách bật lên cười:

- Trời đất ơi!... Sao mà lại đặt tên Cọp…

Cũng lắm phen tôi cằn nhằn ba, má tôi bảo:

- Ối! tại hồi đó ổng theo ông bà xưa, hay đặt tên con cho gần cha đó mà. Ba mày hồi đó tên Hổ, rồi gọi đùa mày là cu Cọp. Riết rồi quen đi. Vả lại, cũng hỏng ăn thua gì cái tên…

Tôi hậm hực:

- Hỏng ăn thua. Con gần độn thổ với người ta chứ ở đó mà má nói. Tên thiếu gì tên đẹp sao ba má hỏng đặt. Con mắc cỡ thấy bà.

Thấy tôi ứa nước mắt, ba tôi an ủi:

- Thôi con à! Lỡ rồi. Ăn nhằm gì cái tên. Người ta quí mình ở tấm lòng chứ đâu ở tên đẹp. Tên đẹp mà xấu tính thì cũng không ai ưa nổi.

- Nhưng con mắc cỡ với người ta lắm. Hay là… ba… ba khai tên con lại đi ba.

Ba tôi lắc đầu:

- Rắc rối lắm… Đâu có dễ gì. Với lại ai cũng biết mày là Cọp – (?! Than ôi!) – Sửa lại cũng vậy.

Tôi tiu nghỉu, buồn “hiu hắt”… Từ chỗ mắc cỡ, mặc cảm tôi trở nên nhút nhát, cù lần. Đi học, tôi ít dám đeo bảng tên, và sợ lên Văn phòng kinh khủng. Từ ngày mà lớp tôi có con gái chuyển từ trường nữ qua học, tôi càng se thắt trong lòng. Nguyên là nơi tỉnh tôi có hai trường Trung Học, một nam một nữ. Song bên trường nữ, vì số học sinh ban B quá ít nên được chuyển cả qua trường nam. Khổ thay, lớp tôi lại nhận vào cả 9, 10 vị… nương nương. Những ngày đầu niên học mới, tôi eo sèo, héo rũ như hoa mười giờ ban trưa; rồi đến khi thằng Quân, trưởng lớp lập xong bản đồ, đem để trên bàn giáo sư tôi, tôi thắt thẻo ruột gan khi thấy cô bạn gái cầm lên xem, rồi kêu bạn bè:

- Ý! Ủa!... Trời ơi… Có ai tên Cọp bây ơi…

Rồi cả đám con gái tuôn lên, cười như ma nhập. Tôi đỏ mặt ngồi im, thằng bạn ái ngại kéo đi chơi. Tôi thẫn thờ như kẻ mất hồn… Ấy là còn đỡ vì mấy cô nàng chưa biết Cọp là ai. Kịp đến khi giáo sư bắt đầu dạy, tuy không đến nỗi kém cỏi, nhưng tôi ớn vô cùng giờ toán. Ông thầy tôi hay giở sổ gọi lên bảng chứng minh. Mỗi giờ qua, tôi thoát nạn là tôi mừng như được của. Nhưng thói thường… cổ nhân đã nói có bao giờ sai “chạy trời không khỏi nắng” mà. Một hôm, ông thầy Pháp Văn gọi lên chia Verbs. Ổng vừa kêu:

- Nguyễn văn Cọp.

Tụi nó cười ầm ầm. Tôi chin người nhìn mấy người bạn gái đang gục đầu xuống bàn, hai vai rung lên từng hồi, chắc cười no nê, mà lòng dâng lên… vừa buồn, vừa tức… hỏng biết tức ai. Tôi chậm chạp, nặng nề lê thân lên, mặt cúi gầm. Cả thầy tôi cũng tủm tỉm cười. Ổng lại còn bảo:

- Về nhà nấu chè cúng, đặt tên lại nghe em. Kẻo có ngày thiên hạ chạy hết.

Đã biết ông thầy vui tính, nhưng bỗng nhiên tôi ghét ổng gớm ghê. Làm như trả nợ mấy động từ, tôi về chỗ ngồi, mồ hôi nhỏ giọt… Mấy hôm sau khi vừa đặt chân đến cửa lớp là tôi đã nghe những tiếng cười khúc khích nghe… xốn xang, bứt rứt vô cùng. “Rõ là đồ bất lịch sự”. Tôi chỉ dám hậm hực mắng thầm, rồi dông lẹ về chỗ. Bực nhất là mỗi khi có tuần lễ lạc quyên, hay góp tiền giúp đồng bào chiến nạn, yểm trợ chiến trường, lũ bạn bè, nhất là mấy vị nương nương cố ý “gào” hơi lớn:

- Tôi đóng tiền nè anh Cọp…

- Mai tui đóng nghe… Cọp.

Thôi thì Cọp… Cọp… loạn lên. Biết thế ngày đầu tôi đã nhất quyết từ chối chức Trưởng Ban Xã Hội cho xong.

Lại càng khổ tâm hơn mỗi khi sắp Tết, hay hè. Những ngày cuối, lũ bạn bè hát xướng ca xang, biết tính tôi rụt rè, xấu hổ, chúng lại hay lôi tôi ra nhập cuộc. Thằng ôn Vĩnh hát xong bèn yêu cầu:

- Bây giờ em đề nghị anh Cọp.

Tôi ngượng nhìn cô giáo Loan cắn môi gượng lại nụ cười, và mấy cô bạn gái quay chỗ khác, hoặc che tóc lại để… cười cho tự do. Nếu không lên thì tụi nó ầm lên:

- Cọp gì mà nhát đởm… Cọp bịnh.

- Chúa tể sơn lâm mà cù lần vậy.

Thằng Hoài ác hơn:

- Lâu lâu mầy thỏ thẻ cho tao nghe hỏng được sao Cọp? Giỏi đi Cọp…

Cả lớp cười rần lên. Một cô bạn kêu khẽ:

- Giời đất ơi! Cọp mà… thỏ thẻ.

Lại một trận cười như… cắt ruột, xé lòng tôi. Tôi cảm thấy bụng dạ mình ai trộn dấm xát muối. Cô Loan lên tiếng:

- Thôi! Mấy em sao cười bạn hoài vậy. Để em ấy hát nghe chứ.

Nhưng thằng San lại thêm:

- Cọp mà hát gì cô. Nó rống nghe hay lắm.

Trận cười lại bùng lên. Thằng Huân giả vờ đứng dậy trịnh trọng:

- Thôi! Cười hoài hỏng sợ thằng Cọp giận hả mấy quỉ nhỏ. Bây giờ đứng đắn lại. Tôi xin mời “nghệ sĩ Cọp”…

Cơ khổ!... Lũ quỉ cứ trêu ngầm mãi. Tôi nhất định từ chối, và mong cho chóng tàn buổi học, tôi không thiết gì đến cuộc vui nữa, cái tên quỉ quái hại tôi không biết bao nhiêu. Dọc đường, thằng Phước ái ngại bảo:

- Tụi nó ác quá… mày đừng buồn.

Tôi làm thinh. Nó tiếp:

- Để ý chi mày. Ờ mà sao ai bảo mày, tên kỳ vậy? Rồi nữa tỉ dụ mầy làm Tướng tá, chẳng lẽ lại gọi là ông Tướng Cọp à.

Tôi cáu sườn:

- Không Tướng tá khỉ gì hết. Chán quá đi mất. tại ông bà già tao hứng đặt vậy. Chắc tao hỏng dám là gì quá mày ơi!... Làm lớn chẳng lẽ khi ký tên hay gì lại để tên đó… Tao hỏng ham gì hết.

Phước gạt đi:

- Ăn thua gì. Con trai gì mà bi quan vậy. Chẳng lẽ vì cái tên mà mày bỏ hết sao… Mai mốt lớn, ra đời sửa tên mấy hồi.

Nó rẽ đường khác. Tôi lại nối tiếp “những bước chân um sùm” trên đường tráng nhựa, ngẫm nghĩ tên mình mà rầu cho “đời” quá… Đang thẫn thờ, chợt thấy hai nữ sinh trước mặt, thỉnh thoảng ngó lại tôi mỉm cười, tôi “nhột dạ” tự hỏi: “Chẳng lẽ hai bà này cũng biết mình là Cọp”. Tôi ngó lại mình mới hay… cái bảng tên “của nợ” còn chễm chệ trên túi áo. Tôi cáu giận rút xuống bẻ làm tư làm năm cái “bảng bêu xấu”, vừa nghiến răng: “Cọp, tao cho mày Cọp”. Tôi quăng xuống đường, lòng vẫn trĩu nặng… tức cành hông, rơm rớm nước mắt, thầm kêu: “Má ơi! Ba ơi!... Ba má hại con mà”… Tôi tự nhủ lòng: Sau nầy, nếu có con, không bao giờ tôi đặt tên xấu xí hay… động trời như ba má tôi đã đặt cho tôi. Quả tình, tôi đã ngán cái tên Nguyễn văn Cọp lắm, quí vị nào đã từng mang tên Hùm, Beo, Cheo, Gấu, Sư Tử mới mong thông cảm giùm tôi. Có vị nào “đồng bệnh”, tôi xin vẫy tay chào thân ái, kết ngãi anh em gấp, “tứ hải giai Beo Cọp” mà… Cũng xin quí vị người lớn, hãy đừng tin dị đoan, sợ ông bà ông vải bắt con mình đi rồi đặt những tên họ mà… lớn lên nó hỏng dám đi đâu (như tôi chẳng hạn). Như tôi là mày râu còn đơ đỡ. Chứ quí vị sinh con gái mà lại đặt tên… Lê thị Cọp hay Võ thị Gấu… (nguy to). Mấy lời thiết tha, nhờ bề trên lượng xét…


CƯỜI HỞ 10 CÁI RĂNG    


(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 217-218, Xuân Giáp Dần, ra ngày 15-1 và 1-2-1974)

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2017

Một Truyện Của Ngày Xưa




Vào một ngày xưa, xưa lắm, tại một thôn trang nhỏ gần ven rừng kia; thuộc miền Bắc xứ ta, dân cư sống rất yên lành, bình thản. Quanh năm suốt tháng ông đồ già sang sảng ngâm thơ, ngoài đồng tiếng trò chuyện của thợ cày thợ cấy, chen trong tiếng cười đùa vui vẻ. Những đêm trăng, cùng với nhịp chày giã gạo thình thình, tiếng hò giọng hát vút lên cao, vượt khỏi lũy tre, mương nước bay tận đến xóm làng xa…

Ngoài những tiếng động bình thường đó, người ta lắng nghe tiếng nước chảy, gió reo, chim kêu, gà gáy… Họ sống rất hạnh phúc, thứ hạnh phúc bình dị, dễ dãi. Họ vui lòng đón nhận, không mơ mộng viển vông, không bận tâm tìm kiếm chi khác lạ hơn, ở những phố thị mịt mùng xa tận kinh đô.

Bỗng đâu, một ngày kia xuất hiện một con Bạch Hổ. Mối đe dọa bắt đầu: sơ khởi, Bạch Hổ vồ bắt gia súc ngoài đồng, khi con cừu, khi nghé, dần dần Bạch Hổ tấn công ngay cả thôn dân đi lẻ tẻ và không khí giới phòng thân.

Từ khi Bạch Hổ ăn thịt người làng thì thôn trang sống trong bấu không khí buồn rầu, tang tóc. Mặt trời vừa khuất sau rặng núi tím thẫm phía Tây là nhà nhà đã then cài kín cổng. Lặng lẽ từ lúc nhá nhem cho đến bình minh. Một sự lặng lẽ kinh khiếp đầy lo sợ, người ta… chờ đợi, chờ đợi một sự không may, dù không ai dám mở miệng nói ra, song tâm trạng mọi người đều như một. Người ta chỉ thở phào nhẹ nhõm khi sáng hôm sau được biết đêm rồi không đồng bào nào làm mồi cho ác thú một cách oan uổng, đáng thương.

Nhưng đáng thương nhất là lũ trẻ: chúng không còn được tự do chạy nhảy, chơi trò cút bắt sau bữa cơm chiều như thường lệ. Những đêm trăng sáng, chúng không được ngắm trăng; lại cũng không được bà bế lên lòng hay vây quanh bà nghe chuyện cổ tích.

Lòng dạ đâu mà nghe kể, ngay chính bà, bà cũng buồn chin cả ruột gan đi, kia mà! Thế đấy, trẻ phải lên giường sớm, nằm hồi hộp, chong mắt lắng tai, giật mình thon thót mỗi khi nghe một tiếng động lạ dù lớn hay nhỏ, bên ngoài. Chúng chưa từng biết hình dáng Bạch Hổ ra sao (và cũng không một đứa nào muốn gặp) song căn cứ theo lời người lớn kể thì nghe đâu “loài Hổ là cháu loài Miu” – cũng tựa như con cóc là cậu ông trời ấy mà! Và chúng cũng suy rộng ra, đoán rằng Hổ chắc cũng na ná như Mèo, có điều to lớn thập bội. Chúng còn biết rằng Hổ không có bộ lông loang lổ như con mèo vá mà toàn trắng, đến chuyện dữ tợn chắc chắn là ăn đứt con mèo, dù mèo theo đúng chỗ chúng ta tìm hiểu thì chẳng hiền lấy một ly con nào cả.

Trong giấc mơ, trẻ thường lóa mắt vì cái màu trắng ghê khiếp của Bạch Hổ. Vừa ghét vừa sợ song chúng vẫn phải gọi Bạch Hổ là ông bằng một giọng kiêng nể theo lời người lớn dặn. Thế mà mỗi lần nhắc đến ông xong, chúng nghe rờn rợn thế nào ấy… lại phải nhìn ngoái lại phía sau tưởng như ông ta hờm sẵn bên lưng, chỉ chực xông đến, vồ chụp đứa nào dám gan, buông lời bất kính.

Những ngày mùa đông càng khốn đốn, mặt trời tắt sớm và trẻ con phải đi ngủ trước hơn cả mặt trời! Có thảm thương chưa?

Còn ban ngày? Tình trạng cũng chẳng khá hơn. Chẳng một đứa nào được phép thò mặt đi đến đâu, ngoại trừ mảnh sân vuông bé nhỏ trước mặt nhà. Người lớn thì ai nấy cũng đều đăm đăm, lầm lì đến là khó chịu!

Nhà trường đóng cửa, tiếng ngâm sang sảng của ông đồ già im bặt. Sinh hoạt trong làng giảm đi già nửa. Những người kiếm củi, hái măng, bứt mây, săn bẫy, bắt buộc lắm mới đi, và không bao giờ đi đơn độc một mình.

Đàn bà con gái đi chợ thật trưa và trở về rất sớm! Trẻ chăn trâu không còn nô giỡn ngoài đồng, giọng hò dưới trăng, câu hát ngoài ruộng cũng không bao giờ vang lên như trước nữa. Các cụ già không còn chống gậy, đi từ nhà nọ đến nhà kia, hỏi thăm trò chuyện cùng nhau.

Niềm lo sợ đè nặng lên mọi người. Tình trạng đó kéo dài cho đến nỗi có người lo xa ngại rằng, nếu không tìm phương đối phó thì lũ trẻ sẽ lớn lên trong sự dốt nát (không dám đi học, không đón mời được thầy về làng) dân làng sẽ lớp thì làm mồi cho ác thú, lớp bỏ đi nơi khác, làng mạc đến tiêu điều mất thôi!

Dân làng bèn họp nhau, bàn mưu để “trị tội” con ác thú mà họ phải gọi bằng ông đó. Người ta làm đủ mọi cách: giương bẫy, giăng lưới, trai tráng chuẩn bị cung tên, ná nỏ. Họ chuốt tên dài, họ mài lao sắc… và họ cũng mời cả những người ở tận những vùng xa xôi đến, những người nổi danh là thiện xạ có tài – không nài tốn kém tiền bạc, đi lại hiểm nguy. Vì họ biết thương nhau, biết đoàn kết trước hiểm họa chung cho cả làng mình.

Than ôi! Con Bạch Hổ quỉ quyệt kia như có con mắt vô hình và lỗ tai cùng khắp: nó tránh lẩn rất tài tình và thỉnh thoảng lại thừa cơ hội chộp một con bò cô độc hay chú cừu non béo bở.

Người ta lại đồn đại rằng Bạch Hổ nọ đã thành tinh, mà thành tinh rồi thì không mong trừ khử được. Mọi người tỏ vẻ thất vọng, buồn rầu. Một cụ già trấn an:

- Nhưng xưa nay người bao giờ cũng khôn hơn loài vật, ta hãy kiên tâm. Rồi sẽ có ngày… lão tin điều đó.

Quả như ông lão tiên đoán, ngày ấy đến, tuy có hơi… lâu hơn người  ta mong đợi. Thì ra người khôn hơn loài vật thật, dù cho loài vật đó là một con Bạch Hổ tinh quái mà người ta vẫn phải gọi bằng ông! Một chiều cuối năm, Bạch Hổ bị sập bẫy! Dân làng gần như mở hội bên chiếc cũi tre chắc đã được khóa kỹ mà trong đó Bạch Hổ đang vùng vẫy, gầm gừ một cách vô vọng, chờ gã thương gia người Tàu đến, mang đi.

Trẻ con, người lớn họp nhau lại ca hát, nhảy múa, bày đủ trò vui, tiếng hò reo vang dậy cả một vùng vì ai nấy cũng nghĩ đến một cái tết an bình thật sự. Mọi người không ai bảo ai, đều cùng một tâm trạng: họ như cất được cái gánh đang đè trên vai, thở phào nhẹ nhõm, bởi mối đe dọa đã chấm dứt từ đây.


Cỡ xê xế, trong lúc dân làng tản mác ai về nhà nấy để dùng bữa và nghỉ trưa, chiếc cũi để lại ven rừng, chẳng cần ai canh giữ, vì tin vào sự chắc của nó. Bất ngờ, một bà cụ từ làng bên có việc đi ngang đấy. Bạch Hổ cất giọng van nài:

- Hỡi bà cụ từ tâm! Tôi đói và khát đến gần cháy cổ, hai ngày nay không được thí cho một hớp nước trong… tôi hối hận quá! Tôi thật lòng sám hối… cụ ơi! Tôi thề sẽ sửa mình, tôi sẽ vào hang sâu mà tu, không sát sinh bao giờ nữa, cho đến chừng nào tôi chết. Tôi van cụ! nếu cụ không thương tôi mà thả tôi ra, cho tôi được uống nước và chạy trốn khỏi tay những người tàn ác này, đặng tôi được tu dưỡng mà chuộc tội thì thà cụ đâm cho một nhát ngay giữa cổ họng tôi cho tôi chết mát mẻ tấm thân, chứ tôi không chịu để cho người ta mang về tận bên Tàu xa xôi hiểm trở đâu, lạy cụ!...

- Già này chả dại! Thả ông ra không khéo ông lại xơi ngay thịt ta mất thôi!

- Không bao giờ, không bao giờ! (cọp sụt sùi khóc) Cháu xin thề độc, cháu không động đến cái móng chân của cụ, uống nước xong, cháu sẽ chạy thẳng vào hang, ngày đêm lo niệm kinh sám hối tội lỗi…

- Thế ông sẽ ăn cái gì?

- Thưa cụ, cháu sẽ ăn rau, ăn cỏ, rau khô, cỏ héo mà thôi. Cháu thề không động đến cỏ tươi, đến rau sống. Cháu đã mở mắt ra rồi, cái cây, cái cỏ nó cũng biết đau, biết khổ, dù là nó không biết kêu khóc, không chảy máu khi bị sát hại nhưng…

Tuồng như xúc động quá, cọp không nói được nữa, gục đầu khóc nức lên. Giọng khẩn thiết của cọp làm bà cụ động lòng. Tội nghiệp! Nếu ta không cứu nó thì họ sẽ mang nó về tận bên Tàu xa lắc… Nó đã biết ăn năn, phải cho nó cơ hội tu thân – Bà cụ nghĩ – từ nay nó sẽ ăn rau khô, cỏ héo mà thôi…

Vậy là “cách” một cái, cụ già tiến sát bên cũi, tháo chốt cũi ra, mở cửa. Bạch Hổ chỉ chờ có thế, nó chui tọt ra, chồm lên, nhe răng, giương vuốt mà rằng:

- Tôi đói lắm, tôi phải đỡ lòng mà thôi, đáng lẽ ra, tôi khỏi phải dài lời cắt nghĩa, nhưng tôi cũng thể tình vì lòng tốt của bà mà cho bà được nói lời trăn trối cuối cùng. Vậy bà muốn gì trước khi chết, nói đi, tôi sẽ cho bà mãn nguyện.

- Đồ vô ơn, bạc bẽo! Bạch Hổ kia! Mi nói thế mà không biết ngượng miệng ư? Mi có thể nuốt trôi được lời hứa vừa rồi ư? Nào đã lâu la gì mà mi quên kia chứ? Mi có thể trở mặt được à?

Trong lúc quá giận, bà cụ quên cả tiếng ông kính cẩn theo tục lệ thường. Bạch Hổ liếm mép gầm lên:

- Chớ nhiều lời, lễ nghĩa trí tín là để cho loài người chúng bay, không phải cho ta. Ta đói hoa cả mắt đây, thịt người ta còn nuốt được thay, sá gì một lời hứa không hình bóng, không mùi vị hở mụ già khờ?

- Thôi! Đành vậy! Lão cũng già rồi, không tham chi sống. Nhưng mi phải giữ lời, cho ta được một đòi hỏi cuối cùng trước khi…

- Hay lắm, thế mới là kẻ biết điều… Nào, mụ muốn gì nào?


- Mi hãy đi với ta, hễ gặp một sinh vật đầu tiên nào đó trên đường, ta sẽ hỏi họ về hành động của mi xem. Nếu họ đồng ý, cho là mi phải, ta xin chịu chết, không mảy may ân hận.

- Ối! Tưởng gì khó, được! Bạch Hổ này cũng rộng lượng lắm, mụ ơi! Nào chúng ta đi, gâm gấp lên một tí!

Cả hai sóng bước. Sinh vật đầu tiên mà đôi bên gặp là một bác trâu già. Bà cụ ôn tồn hỏi:

- Chào Trâu, tôi vừa thi ơn cứu Bạch Hổ khỏi cũi, thế mà hắn trở mặt đòi ăn thịt tôi ngay, bác thử cho biết thế là phải hay trái?

Bằng đôi mắt lờ đờ mệt mỏi, Trâu nhìn hai bên một giây, chậm rãi nói:

- Thế là đúng, đúng lắm! Xem như ta này: suốt một kiếp hầu hạ, giúp đỡ chủ nhân, kéo cày, kéo xe, lũ trẻ thay nhau cỡi trên lưng ta ra đồng mỗi sáng. Ta ăn uống đạm bạc: rơm cỏ, nước ao… Thế mà hôm nay ta già yếu thì họ chán ghét, không dung ta nữa, chỉ lăm le chờ ngày xẻ thịt ta mà ăn, lột da ta bịt trống. Đồng loại ta bị tận dụng cho đến cái xương, cái sừng, cái lông… ôi! Ta đau lòng quá! Không muốn nhắc đến. Loài người bạc ác, bất nhân tới mức đó, thương tiếc làm chi? Giết đi là phải!

Bạch Hổ đắc ý, cười khà:

- Đó, bà lão thấy chưa? Ta làm thế là chí lý, bác Trâu đồng ý, thấy không?

- Hãy khoan, đó mới chỉ là một ý kiến thôi. Nếu mi chắc việc mi làm là đúng, thì hãy hỏi thêm kẻ khác xem sao?

Cọp không phản đối, vì tin rằng không ai bênh vực cụ già. Sinh vật thứ hai là một cô cá Quả. Lúc người và vật đến bờ sông thì cô Quả nhà ta đang lượn lờ, dạo mát trên dòng nước trong vắt, soi rõ từng cọng rong, viên cuội dưới đáy sông. Bà cụ cất lời:

- Cô Quả xinh đẹp ơi! Tôi cần hỏi ý kiến cô về một việc quan trọng, chỉ một lời của cô có thể định đoạt cả tính mạng một sinh vật, mong cô cẩn trọng cho.

- Loài cá chúng tôi không ưa nói năng chi cả. Song nếu quả có một việc quan trọng đến thế thì ta cũng thể tình bà mà lên tiếng một lần, ta đây tai nghe, mắt thấy đã nhiều. Hãy tin ta!

Cá nói trong khi bụng nghĩ: có lẽ lời nói của mình quan trọng thật, mình là sinh vật quan trọng thật, mình từng trải biết bao! Suốt một dải sông dài này, chỗ nào là không có bóng mình, mình đã từng xuôi ngược…

Cọp liếc nhanh cá một cái, bụng nghĩ: con Quả ranh này bẻm mép thực, chưa bao giờ rời khỏi mặt nước giam thân mà dám nói là tai nghe mắt thấy đã nhiều. Tai nó đâu? Sao ta không thấy nhỉ? Rồi cọp tự nhủ: ôi! Mà thôi, mặc xác nó, quan tâm làm chi, mình không nên làm nó xấu hổ nó sẽ về hùa với mụ già. Bạch Hổ cất giọng ngọt ngào:

- Thưa quí nương! Tôi biết cô là người thông minh khả ái, chả thế mà cô bơi lội tung tăng trong nước được đó sao? Vậy chúng tôi nhờ cô phân xử hộ cho: Số là tôi bị nhốt, mụ già này thả tôi ra, tôi đói quá đòi xơi thịt mụ, cô nghĩ xem, mụ ta già rồi, còn sống mấy ngày nữa? Nhưng mụ hèn nhát đòi có ý kiến của một bậc khôn ngoan nhất thế gian, mụ mới chịu bằng lòng để tôi hóa kiếp cho. Cô bảo sao, tôi xin nghe vậy, mà mụ cũng khỏi kêu ca rằng tôi ỷ mạnh nọ kia…

Cô Quả quẫy đuôi một cái, chiếc đuôi có vẩy lóng lánh sáng ngời trên mặt nước, giọng cô lạnh ngắt:

- Này cậu Bạch Hổ ơi! Ta nghĩ rằng cậu nên thịt mụ ngay tức thì! Cậu trông gương chúng ta đây: có bao giờ làm hại loài người? Có bao giờ ở chật đất, đi chật đường của họ không? Có bao giờ loài cá chúng ta ăn tranh thực phẩm của họ không? Ấy thế mà họ không ngừng tìm cách tiêu diệt chủng tộc ta: họ dệt lưới chắc, họ rèn chĩa nhọn, họ sắm dao to, họ đan nơm kín, ngày đêm họ rình rập ven hồ, bờ sông, chỉ chực hại loài ta (giọng cô nghẹn lại, nước mắt cô trào ra hòa trong nước sông trong vắt, vì cô quá đỗi xúc động) Loài người ác lắm, hãy thịt họ đi! Ta thề đứng về phía cậu, dù rằng ta không lên mặt đất bao giờ.

Nói xong ngần ấy lời, Quả ta quẫy đuôi, bơi ra giữa dòng sâu, không thèm nhìn lại. Cọp gằn giọng:

- Thế là bà mãn nguyện nhé! Có chết cũng đáng đời, cũng hả lòng, không thắc mắc chi…

- Hãy hỏi kẻ thứ ba xem. Trước sau gì ta cũng ở trong tay mi mà!

- Ừ, thì ta cũng sinh phúc cho mụ lần chót, chắc không ma nào bênh vực mụ đâu.

Lại kéo nhau đi. Đến trước một cây táo đầy trĩu quả, bà cụ hỏi:

- Táo ơi! Táo sẽ là vị quan tòa công bình nhất. Hãy cho ta biết: sau khi được ta giải thoát cho mà lại đòi ăn thịt ta, Bạch Hổ xử sự như thế có phải là kẻ bội vong không?

- Chẳng vong ân bạc nghĩa gì tất – Táo trả lời liền – Tôi đây: tôi cho loài người biết bao quả ngọt khi họ đói khát! Ngày mưa, ngày nắng họ đu nấp dưới bóng tôi, thế mà hỏi xem họ có tha cho không? Họ rong cành bứt lá để làm tổ cho gia súc, chặt thân, đào gốc, tận diệt tôi khi tôi già cỗi để làm củi nấu ăn, làm than sưởi rét. Loài người thậm ác, hãy giết họ đi, tôi thề không tiếc.

Bà cụ hốt hoảng, van nài:

- Xin sinh phúc, hỏi thử kẻ thứ tư xem! Ta thề không dám nài nỉ lần nào nữa, đây là lần chót, hãy nể ta tuổi tác…

- Rõ là nhiễu sự! Nhưng thôi! Ta chẳng hẹp lượng đâu, ta cũng chí tình lắm. Có thế khi chết mụ không oán hận ta, mà hồn mụ cũng dễ dàng siêu thoát!

Lần này, họ gặp một cậu bé. Bà cụ vội vàng cất tiếng:

- Chào cậu! Mong cậu vui lòng nghe rõ đầu đuôi câu chuyện của tôi.

- Cháu không có gì phải vội đi, cụ cứ thong thả, cháu rất muốn nghe rõ,

- Cảm ơn cậu nhiều lắm. Chuyện thế này đây: già có việc đi ngang cái cũi. Bạch Hổ đang khát khô cổ bên trong nài nỉ già, nên già thương tình thả cọp ra cho nó uống nước. Bây giờ nó lại trở mặt đòi ăn thịt già đi… cậu nghĩ sao?

- Cháu không thể tin một việc như thế, Bạch Hổ khôn ngoan đời nào lại chui vào cũi làm gì?

- Không phải ta chui vô cũi, đó là lũ người quỉ quái đánh lừa ta… họ giăng bẫy đấy chứ, ta đời nào…

Giọng cậu bé nhỏ nhẹ:

- Lạ nhỉ, cháu chưa từng thấy cái cũi hình dáng ra sao đấy! Nó bằng gì ạ?

- Bằng tre chứ bằng gì? Mày ngu quá! Bằng tre, hiểu chưa?

Cọp nói như gầm lên vì sốt ruột. Cậu bé vẫn lễ phép:

- Vâng, cháu ngu thật, đầu óc tối tăm lắm, cháu chỉ có thể hiểu rõ được câu chuyện nếu cháu thấy cái cũi, nó ở gần đây không? Tốt hơn, xin cụ và ông cho cháu thấy tận mắt…

- Thì khó khăn gì? Ông sẽ dẫn mày đến mà xem cho sáng mắt mày ra.

Cọp vùng vằng đi trước, bà cụ và cậu bé theo sau. Đến bìa rừng, cọp trỏ cái cũi trống không:

- Đấy, cái cũi là cái đó, lại mà xem, thằng nhãi, mau kẻo mất thì giờ.

“Thằng nhãi” đến tận cái cũi xem xét hồi lâu, đoạn gãi tai mà rằng:

- Chuyện này lạ, chắc có gì uẩn khúc bên trong. Xin cụ phải nói thật từ đầu: cụ đứng phía nào trong khi nói chuyện với ông ấy?

- Phía này, này…

- Còn ông, ông đứng phía nào khi van bà cụ mở cũi? Thưa ông!

- Phía nào nữa? Phía trong cũi chứ phía nào? Mày rõ thậm ngu!

Cọp lại gầm lên. Cậu bé nghiêng đầu, dáng bộ áy náy:

- Cháu hết sức khổ tâm vì làm mất thì gi quí báu của ông, nhưng có Trời biết cho, cháu quả ngu như ông nói, cái gì cũng phải được giải thích kỹ càng mới hiểu. Bây giờ, cháu còn một chút thắc mắc nhỏ: làm sao một vị đạo mạo với cái vóc dáng to lớn như ông mà có thể chui vào trong cũi được?

- Sao lại không? Đồ ngốc, chính ta đã ở trong ấy mà, ta lại thèm nói dối mi ư? Nói dối để làm chi? Có ích lợi gì cho ta đâu? Thôi, chớ có dài dòng, hãy nói ngay, ta có nên ăn thịt mụ già không để ta còn liệu? Mà này, ta báo trước, mi theo phe mụ già thì ta thịt mi luôn đó, nhãi con!

- Không đời nào! (dáng bộ kính cẩn, cậu bé thưa) Cháu xin thề cháu sẽ làm vừa lòng ông sau khi biết rõ sự thực, cháu muốn hiểu rõ ông đã theo lối nào mà chui lọt vào cũi, ông thì to lớn, cái cũi thì nhỏ hẹp thế kia…

- Sao không chui lọt được, hở thằng ngu? Còn lối nào nữa? ta cóc thèm nói dối với hạng nhãi như mi, mi mở to mắt mà xem đây!

Cọp nghiến răng, quật mạnh đuôi, chui vào cũi. Nhanh như cắt, cậu bé đóng sập cũi lại, khóa chắc chắn, đoạn đứng lên:

- Bây giờ thì mời cụ về nhà ngay, kẻo tối.

Và ném cho Bạch Hổ cái nhìn tinh quái, cậu nói:

- Từ nay, ông có thể yên tâm, không một người thứ hai nào có từ tâm hơn bà cụ nữa. Lão thương gia Tàu sẽ bàn chuyện với ông! Chúng tôi xin từ biệt!


MINH QUÂN      


(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 217-218, Xuân Giáp Dần, ra ngày 15-1 và 1-2-1974)


Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2017

Tờ Lịch Đầu Tháng


Trước khi bị bóc đi, tờ lịch ngày ba mươi mốt nói với tờ lịch ngày mồng một:

- Ta sắp vĩnh viễn giã từ chú em. Ngày sắp tới là ngày riêng của chú, chú sẽ mở đầu một tháng. Chú có riêng mình một buổi bình minh, một buổi trưa, một hoàng hôn và có cả đêm tối. Nhưng chú phải nhớ, phải nhớ cho thật kỹ một điều: chú em chỉ được sống đúng một ngày thôi đấy nhé. Dòng họ chúng ta mang cái truyền thống ấy, đời sống chúng ta rất ngắn ngủi và rất chính xác. Vậy hãy sống cho ra sống, đừng bỏ phí một giây nào.

Tờ lịch ngày ba mươi mốt rớt xuống, tờ lịch ngày mồng một trình diện cuộc đời. Nó mang trên mình đầy đủ di tích và đặc tính của những tờ lịch trước. Vẫn khuôn mặt hình chữ nhật, vẫn là năm 1971, chỉ có tháng mới, ngày mới.

Đầu tiên tờ lịch ngất ngây vì trách nhiệm, vì đời sống đột ngột hiện ra trước mặt.

Nó có riêng mình một buổi bình minh.

Nắng đầy cửa sổ, nắng tràn trên sân nhà. Chị Rèm cửa nép mình một bên vẫn hồng lên rực rỡ. Hàng muôn ngàn hạt bụi đuổi nhau tung tăng, sưởi mình trong nắng. Chúng giống hệt những tinh cầu trong vũ trụ của một chú búp bê vô cùng bé nhỏ. Bác Gió, sau một đêm du hành trong không gian mênh mông đem về cho bình minh một chút quà lành lạnh của sương đêm và mùi thơm dịu dàng của cây trái cỏ hoa.

Để chào tờ lịch ngày mồng một, mọi vật mặc áo mới, tươi mát và sạch sẽ.

Tờ lịch cảm thấy mình quan trọng, nó tin rằng mọi vật đang chờ đợi nó ghê lắm. Tờ lịch nói:

- Xin nhắc quí vị, hôm nay là ngày mồng một, đầu tháng.
Mọi vật lặng thinh, bình thản. Đã có biết bao nhiêu bình minh qua đi trong phòng này! Mọi vật không có lý do gì để vội vã. Nhưng vài vật cảm thông với tờ lịch, nó chỉ có độc nhất một buổi bình minh. Nó có quyền say sưa cuống quít.

Tờ lịch lại nói:

- Xin nhắc quí vị, bình minh rồi. Đời sống đẹp quá, phải vui lên chứ.

Ông Bàn bắt đầu hơi bực mình, ông càu nhàu:

- Này chú bé con, đừng làm ồn. Đâu có phải bọn này đợi chú ra đời rồi mới được biết tới bình minh.

Tờ lịch im, nhưng vẫn nôn nao, bồn chồn.

Nó bắt đầu để ý tới từng vật xung quanh. Trong buổi bình minh hồng hào khỏe mạnh, tờ lịch quan sát và học hỏi về đời sống của những vật khác biệt, như chú học trò bắt đầu cắp sách tới trường.

Buổi trưa tờ lịch biết rõ về ông Bàn, anh Ghế, chú con Quay. Nó cũng biết tại sao cụ Sách được mọi vật kính trọng. Nhất là tờ lịch biết rõ nhiệm vụ của nó: nhắc nhở mọi người, mọi vật biết họ đã bước tới đâu trên con đường thời gian vô tận.

Còn việc nhắc nhở rằng thời gian đi mau đã có bác Đồng hồ.

Nhưng khi chiều tới, tờ lịch lại nhớ tới lời nhắc nhở của vị tiền nhiệm.

- "… chú em chỉ được sống đúng có một ngày thôi đấy nhé… vậy hãy sống cho ra sống…"

Mặt trời lặn, bóng tối về. Tờ lịch biết rằng nó chỉ còn đúng có một đêm. Và, bắt đầu từ giây phút này, nó cũng không còn là vật cần thiết nữa rồi.

Buổi chiều chú bé chủ nhân căn phòng đã nhìn nó một lần để tính toán ngày tháng, thế là tờ lịch mãn nguyện.

Nhưng tờ lịch biết rằng qua đêm nay khi bình minh khác bắt đầu, nó sẽ rơi xuống, nhường chỗ cho đàn em.

Nửa đêm tờ lịch hỏi Đồng hồ:

- Xin bác coi giùm: Tôi còn mấy giờ nữa?

Đồng hồ đáp:

- Khoảng sáu tiếng.

Khi hỏi bác Đồng hồ lần thứ hai, biết chỉ còn sống còn bốn giờ tờ lịch bỗng nói với mọi vật:

- Thưa quí vị! Xin quí vị giúp cho tôi một điều. Tôi muốn được thấy mọi vật trong phòng đều vui. Những thế hệ trước tôi hẳn đã từng nhiều lần được hưởng chuyện đó. Nhất là những tờ lịch có may mắn ra đời nhận công tác vào đúng một ngày lễ.

Có lẽ sự đòi hỏi của tôi làm phiền vài vị. Nhưng tôi chỉ sống đúng có một ngày và ngày sắp hết. Mong quí vị nghĩ tình tương trợ muôn loài mà tha thứ cho.

Tôi hiểu rằng, ngoài khung cửa sổ kia, ngày rộng mênh mông, rộng bằng cõi nhân gian muôn màu muôn vẻ mà tôi đã được nghe bác Ô đen, những chú Giầy Dép kể lại một phần. Ngày có những bình minh lạ, những hoàng hôn xa mà tôi chẳng hề biết tới.

Nhưng ngày của tôi thu nhỏ trong căn phòng này. Tôi thấy ông Bàn, cụ Sách, chú con Quay, tôi sống với chị Bóng bay, anh Ghế… Chính các vị làm thành ngày của tôi… Sinh hoạt, nỗi buồn của quí vị là ngày của tôi….

Chỉ còn một đêm nay, tôi mong quí vị tặng cho phần cuối cùng của đời tôi những giây phút rực rỡ.

Tất cả các vật trong phòng lặng thinh. Chúng xúc cảm.

Chú con Quay chạy ra giữa phòng xoay tít. Cây Đàn ném ra một trận mưa nốt nhạc. Bông hoa trong bình mở tung tươi hồng như vừa tình dậy sau một giấc mộng đẹp. Bốn cây nến rực sáng ở các góc phòng. Cụ Sách phanh cái bụng đầy chữ ra, ngâm một bài thơ cổ. Chị Rèm cửa gọi bác Gió tới và thướt tha khiêu vũ trong ánh nến vàng tươi.

Tờ lịch hân hoan vừa hát theo tiếng đàn vừa chờ bình minh tới.

Có những ngày mà mọi vật quanh chúng ta bỗng dưng vui tươi, hớn hở. Hoa đẹp hơn, mặt bàn sạch sẽ hơn, chú con Quay tài tình dễ thương hơn. Tại vì tờ lịch đấy.

Đó là tờ lịch biết quí trọng, mến yêu vô cùng một ngày riêng của nó. 

LÊ TẤT ĐIỀU          
(trong NHỮNG GIỌT MỰC)     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 7, ra ngày 26-9-1971)


oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>