Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

CHƯƠNG HAI_DƯỚI MÁI GIA ĐÌNH


hai

Ba tôi sinh trưởng ở thôn quê, giữa những đồng ruộng phì nhiêu, xanh rì ngọn mạ và bên bờ một dòng sông hiền hòa. Sau khi ông nội qua đời để lại người vợ trẻ, hai đứa con gái đầu lòng và thằng con trai ba tuổi, bà nội tôi, người đàn bà khổ hạnh nhưng có một nghị lực phi thường, quyết định đem gia đình lên thành phố với giấc mộng là tạo cho các con một địa vị quan trọng ở đời. Quả thực bà nội đã chứng minh một cách hùng hồn câu “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Hai bác gái tôi, người thì trở thành giáo sư âm nhạc lỗi lạc ở Viện Quốc Gia Âm Nhạc, người giữ chức giảng sư tại trường Đại Học Luật Khoa; riêng đứa con trai út, tức ba tôi, vẫn thường mơ ước trở thành một kỹ sư, được bà nội gửi vào trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Nhưng khi vừa hoàn tất bậc trung học ba tôi nghĩ rằng việc tiếp tục học lên trường Cao Đẳng đòi hỏi nhiều tổn phí cho ngân quỹ gia đình và có thể làm cản trở bước tiến của hai chị, nên đã tự động nghỉ học và xin một chân phụ-thợ-hồ cho một ông thầu khoán danh tiếng ở Sàigòn. Biết tính của con trai một khi đã quyết định việc gì khó ai có thể lay chuyển, bà nội tôi chỉ còn biết khuyên nhỏ nhẹ:

- Ở đời, nghề nào cũng đáng quí, đáng trọng, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, con ạ. Hãy cố gắng trở nên một người thợ học nghề giỏi, nghe con.

Ba mỉm cười thưa lại:

- Mẹ an tâm, con sẽ cố gắng hết mình.

Nhưng, nếu bà tôi tin là đứa con trai tháo vát của mình sẽ trở nên một người thợ xuất sắc thì trái lại ông thầu khoán chỉ thấy trước mắt mình một tên học nghề tệ nhất trong suốt bốn mươi năm hành nghề. Chỉ tại ba tôi, thay vì thực hành theo lời dạy của ông thầy, lại đi sáng chế ra những phương pháp xây cất mới khiến chủ nhân thường xuyên nổi nóng đòi tống cổ ba tôi đi:

- Cậu nên nhớ là cậu tới đây để học nghề chứ không phải để dạy nghề kẻ khác.

Ba vẫn không nao núng. Ngay từ hồi còn nhỏ ba đã nghiên cứu sự tiết giảm động tác để công việc được mau chóng, nên cố gắng giải thích cho ông thầu khoán nghe:

- Thưa ông, nếu để ý ông sẽ thấy là không bao giờ hai người thợ có những động tác đặt viên gạch giống nhau. Điều đó rất quan trọng. Ông biết tại sao không?

- Tôi chỉ biết là những người thợ nào dưới quyền tôi mà mở miệng bày đặt đề nghị này nọ tôi sẽ tọng cho một viên gạch!

Ba vẫn bình tĩnh trình bày:

- Quan trọng là vì con người thường đặt tự ái không đúng chỗ nên, nếu có người thợ nào có cách đặt gạch xây riêng thì thế nào những người khác cũng sẽ làm ngược lại. Nếu ở địa vị ông, tôi sẽ quan sát người thợ nào có phương pháp hoàn hảo nhất rồi bắt các đồng nghiệp khác bắt chước y như vậy.

Ông thầu khoán giận xanh mặt, nhặt một hòn gạch giơ lên như đe dọa:

- Có lẽ tôi không đủ ma lanh để nhận ra ai là giỏi, nhưng chỉ biết tống cổ tên nào bết nhất mà cứ hay lên mặt thầy đời. Thôi, đừng làm chói tai tôi nữa nếu không tôi sẽ đính viên gạch này vào mặt cậu dù cách đó có làm vừa lòng cậu hay không!

Trong năm đó, mặc dầu có sự chê bai của ông thầu khoán, sự nghi kỵ của các đồng nghiệp, ba vẫn quyết chí thực hiện những sáng kiến của mình.

Thời gian trôi, với sự kiên trì và nghị lực, với sự nhẫn nại và tinh thần cầu tiến ba đã thành công vẻ vang trong nghề, rồi cũng trở thành một vị thầu khoán, một chủ nhân ông. Một nhóm thợ tinh nhuệ, áp dụng phương pháp tiết giảm động tác và với tài điều khiển khéo léo của ba, đã đạt được những kỷ lục độc đáo, xây nhanh, kiến trúc giỏi vào bậc nhất trong nước, không những đã kiến tạo nhà cửa, cao ốc mà còn bao thầu cả công việc xây cất cầu cống, công xưởng, làm xa lộ cho chính phủ. Nhiều cơ quan công quyền và tư nhân đã mời ba tới để thuyết giảng cũng như giúp nhân công thực hành các phương pháp làm việc của ba.

Đến 34 tuổi, ba đã mở văn phòng ở Sàigòn và một vài thành phố khác như Cần Thơ, Huế, Nha Trang… Và cũng từ thời gian đó miệng ba lúc nào cũng phì phà điếu xì gà, bụng ba tà tà… “bành trướng” cho “hợp thời trang” của một kẻ làm lớn!

*

Ba gặp mẹ năm 27 tuổi trong một cuộc nghỉ mát ở Đà Lạt và chỉ một năm sau hai người cùng “bước lên xe hoa”. Hồi đó mẹ đang theo ngành tâm lý học và nổi tiếng là một thiếu nữ hiền dịu và khéo léo.

Từ khi có con, ba đề nghị phối hợp phương pháp tiết giảm động tác của ba với những sở trường về tâm lý của mẹ trong việc giáo dục gia đình. Lúc đầu một mình mẹ cáng đáng mọi công việc nội trợ nhưng khi đàn con đã lên đến con số 12 thì mẹ mới bằng lòng để ba mượn chú Xồi và thím Xực vào giúp việc nhà.

Ba muốn chúng tôi phải làm giúp chú Xồi, thím Xực để tránh tinh thần ỷ lại. Tuy nhiên ba cũng muốn rằng sự hợp lực đó phải do sự tình nguyện và ý thức bổn phận chứ không phải do ép buộc. Ba khám phá ra rằng phương cách tốt nhất để thu được sự cộng tác phong phú của nhân công trong một cơ xưởng là thỉnh thoảng nên mở những phiên họp thân mật giữa chủ và thợ để thợ được tự do trình bày ý kiến, sau đó chủ sẽ phân phối công việc cho họ tùy theo năng lực và sở thích cá nhân. Cũng vậy, ba và mẹ thành lập ở nhà một Hội Đồng Gia Đình theo mẫu ở công ty của ba. Ba và mẹ cho rằng những gì tốt đẹp ở nhà có thể tốt đẹp ở sở làm và ngược lại. Hội Đồng Gia Đình nhóm họp mỗi sáng chủ nhật, ngay sau bữa điểm tâm.

Khởi sự buổi họp đầu tiên, ba trịnh trọng đứng lên, rót một ly nước lọc và đọc… diễn văn:

- Thưa quí vị (có tiếng cười khúc khích của chúng tôi) trong gia đình… ba (!) là người cao niên hơn cả, do đó ghế chủ tịch đương nhiên thuộc về ba. Hy vọng không có ai phản đối?... ( Ba đưa mắt đảo một vòng, thấy im lặng lại tiếp) Nhân danh chủ tịch, ba sẽ…

Bỗng chị Thuần cắt ngang:

- Thưa ông… chủ tịch…

Chị Thuần hiện học lớp đệ nhất nên thích bàn cãi và đã có kinh nghiệm phát biểu ý kiến trước đám đông, tuy nhiên chị chưa nói được gì ba đã lớn tiếng:

- Yêu cầu giữ trật tự! Chỉ có chủ tịch được quyền nói…

- Nhưng… ông chủ tịch vừa hỏi có ai phản đối không, vậy… con muốn chống…

- “Trật tự” nghĩa là “ngồi xuống đi con”! Chủ tịch nhắc lại : yêu cầu giữ trật tự!

Nói xong ba uống một hớp nước, hắng giọng rồi tiếp tục bài diễn văn:

- Mục đích của buổi họp hôm nay là để phân chia các công việc khẩn thiết ở bên trong lẫn bên ngoài nhà. Ai có ý kiến nào không?

Không có người nào giơ tay.

Ba mỉm cười và cố tạo một bầu không khí vui vẻ:

- Nào các… đồng chí trong Hội Đồng Gia Đình, hăng hái lên chứ. Chúng ta đang sống trong thời đại dân chủ, mọi người đều có tiếng nói bình đẳng. Nào quý vị muốn phân chia công tác ra sao?

Vẫn không ai có ý kiến, bởi vì có người nào lại tự nhiên đi nhận lấy gánh nặng đâu. Ba lại tiếp tục khôi hài:

- Trong một chế độ dân chủ, mọi người cần phát biểu lập trường của mình thì mới có tiến bộ. Hãy mở miệng ra, thưa quí vị!

Cử tọa bất động. Mặt ba xịu xuống khiến tôi cảm nghĩ nếu không có làn da bên ngoài chắc các khối thịt hai bên má của ba sẽ rớt xuống như những trái cây chín mùi. Thấy những lời tác động của mình không có kết quả, ba chỉ đại vào tên ngồi gần nhất:

- À, Huỳnh Sún có ý kiến!

Bị “tấn công” bất ngờ, Huỳnh Sún ngơ ngác, há hốc miệng như một kẻ vừa bị đá từ trên cung trăng xuống đất. Hắn ấp úng:

- Thưa… ba, ý quên thưa… ông chủ tịch, con đâu có…

- Huỳnh Sún, can đảm lên như ba của con đây nè. Sao, con nghĩ thế nào về việc phân chia công tác trong nhà?

“Nạn nhân bất đắc dĩ” của ba từ từ đứng lên:

- Thưa ông chủ tịch, theo con nghĩ nên để cho chú Xồi và thím Xực làm tất cả, bởi vì nhà mình đã mất tiền mướn họ…

Ba hét lên:

- Ngồi xuống! Nhân danh chủ tịch, ba bác bỏ các lời nói vô trách nhiệm vừa rồi của Huỳnh Sún.

Huỳnh Sún lại từ từ ngồi xuống giữa sự ủng hộ… ngầm của chúng tôi (trừ mẹ, vì mẹ vẫn về phe ba). Ba lại uống hớp nước, đốt điếu xì-gà rồi lấy giọng nghiêm chỉnh nói tiếp:

- Quí vị thừa biết vào thời buổi này đâu có dễ gì mướn được người giúp việc, nhất là với một gia đình đông người như nhà chúng ta đây.

Tên Huỳnh Sún như đã được chích kích thích tố, làm oai đứng dậy:

- Nếu thế nên cho họ nghỉ quách cho rồi. Họ làm tàng quá!

Hải Đầu Bò hỗ trợ cho em:

- Theo con, chú Xồi và thím Xực đã bận quá nhiều công việc…

Khuôn mặt của ba và mẹ sáng hẳn lên, hai người đều gật gù đầu như tìm được đồng chí.

Nhưng Hải Đầu Bò đã tiếp nối câu nói:

- Như vậy, theo thiển ý của con, nhà mình nên mướn thêm một người giúp việc nữa để giúp chú Xồi, thím Xực.

Ba vỗ bàn cái rầm:

- Ngồi xuống! Yêu cầu trật tự!

Có lẽ thấy chiều hướng tiến triển không khả quan chút nào, ba nháy mắt ra hiệu cho mẹ “cứu vãn tình thế”, vì biết mẹ “một cây tâm lý”:

- Chủ tịch ra lệnh cho bà phó chủ tịch phát biểu ý kiến.

Mẹ nhỏ nhẹ lên tiếng:

- Giải pháp hay nhất là chúng ta mướn thêm người làm đúng như Hải đề nghị.

Ba mở tròn xoe mắt kinh ngạc, nhưng không dám có phản ứng gì. Chúng tôi hích tay nhau, thích thú. Mẹ vẫn tỉnh bơ tiếp tục nói:

- Do đó ngân quỹ của gia đình ta sẽ phải dành ra một ngân khoản khá lớn, nhưng lấy ở đâu ra bây giờ? Hay… phó chủ tịch đề nghị thế này : nếu chúng ta bỏ mọi thứ tráng miệng sau mỗi bữa ăn, bỏ hết những chi phí cho từng cá nhân thì chúng ta có thể mướn được một chị giúp việc trong nhà; còn nếu chúng ta bỏ hết các khoản giải trí hàng tuần như xem chớp bóng, ăn cà-rem, và bỏ hết mọi việc may mặc trong vòng một năm thì có thể lấy tiền đó thuê được một ông lo việc ngoài nhà…

Mẹ chưa dứt câu, ba đã hí hửng:

- Vậy vị nào muốn “cúp” những “mục” vừa kể?

Dĩ nhiên không ai muốn, nhưng cũng không biết phải trả lời ra sao vì biết mình đã rơi vào bẫy tâm lý của vị phó chủ tịch Hội Đồng Gia Đình, tức người mẹ khôn ngoan và khéo léo tuyệt trần của chúng tôi.

Sau vài lời “khích lệ tinh thần” của ba, công tác được phân chia mau lẹ : Con trai quét sân, đốt rác rưởi; con gái quét nhà, lau bụi và rửa bát. Mọi người, trừ ba, đều phải tự động xếp dọn phòng ngủ và giường chiếu của mình. Một thắc mắc cuối cùng của Cu Bi:

- Chúng con còn bé làm sao với lên cao được mà lau bụi hay cầm nổi cái chổi?

Lại phân công lần nữa cho rõ rệt : phía con gái, người bé thì lau dưới chân đồ đạc, các hộc tủ thấp, người lớn lau cửa kính, phần trên đồ đạc và các ngăn tủ cao – phía con trai, lớn thì quét sân, nhỏ thì đổ rác, lớn tưới cây, nhỏ nhổ cỏ…

Phiên họp đầu tiên của Hội Đồng Gia Đình chấm dứt trong bầu không khí… hậm hực và trong tiếng tranh nhau xem ai lớn, ai nhỏ hầu… xí việc làm!

Tuần lễ sau, cũng vào sáng chủ nhật, Hội Đồng Gia Đình nhóm họp lần thứ hai. Chúng tôi vào chỗ ngồi với một dáng điệu chậm chạp. Ba, tức ông chủ tịch hội đồng như cảm thấy có tảng đá ngầm dưới dòng nước và ông khẽ nhăn mặt. Kể ra cũng khó khăn cho ba khi phải khai mạc phiên họp trong bầu không khí không thuận lợi.

Chị Thuần đứng lên, “khai pháo” đầu tiên:

- Xin lưu ý Hội Đồng về việc… “bà” phó chủ tịch, tức mẹ chúng ta, dự định mua một tấm thảm để trải ở phòng ăn. Tôi đề nghị Hội Đồng cần được tham khảo ý kiến về việc mua bán này.

Em Mộng giơ tay:

- Hoàn toàn đồng ý với chị Thuần.

Trong khi suy nghĩ để “phản công”, ba cố gắng giữ nét mặt thản nhiên, chỉ tay bâng quơ, nói:

- Cần bàn cãi gì nữa không?

Phía con gái liền nhao nhao lên:

- Chúng con có bổn phận lau nhà, do đó có quyền chọn lựa tấm thảm theo ý thích.

- Thảm phải có thêu đầy hoa, bởi vì nhờ có hoa người ta sẽ không nhìn rõ được những hạt cơm, vụn bánh rơi rớt, nhờ vậy chúng ta giảm bớt được biết bao động tác như đỡ phải chăm chú nhìn, đỡ phải đưa tay nhặt và nhất là đỡ phải quét và giặt tấm thảm.

- Chúng tôi muốn biết… “bà” phó chủ tịch sẽ mua loại thảm nào?

- Phía con trai chúng tôi cũng cần được biết việc mua tấm thảm này ảnh hưởng ra sao đến ngân quỹ gia đình?

Thấy các con phát biểu ý kiến hăng quá, chứ không còn thụ động như lần trước, ba luống cuống, cầu cứu tới mẹ:

- Tôi xin nhường lời cho bà phó chủ tịch… Mình ơi, mình cần lên tiếng đi chứ, chúng ta phải làm gì bây giờ?

Mẹ chậm rãi trả lời:

- Mẹ… à quên, tôi dự tính mua một tấm thảm mầu tím, trải dưới bàn ăn và giá khoảng năm ngàn bạc. Nhưng nếu các con… à quên, quí vị thấy rằng giá đó quá đắt hoặc quí vị muốn loại có bông thì mẹ cũng sẽ phục tòng đa số.

Anh Hoài đề nghị:

- Theo con, chúng ta không nên tiêu quá bốn ngàn rưỡi.

Ba nhún vai, bởi vì điều gì mẹ đã đồng ý thì đối với ba không thành vấn đề nữa:

- Có vị nào phản đối ý kiến của… đồng chí Hoài không?

Mọi người thông qua mau lẹ.

Ba hỏi thêm:

- Ai còn điều gì muốn nói nữa không?

Bình-hủ-lô vội vàng giơ tay:

- Con đề nghị lấy năm trăm đồng mà chúng ta tiết kiệm được trong việc mua chiếc thảm để… để… mua một con chó con!

- Hả? Mua gì?

- Một con chó con!

- Ba nghe không rõ, mua… con gì?

Bình-hủ-lô nói chậm lại như đánh vần từng tiếng:

- Một… con… chó… con!

- Bình, con có tỉnh trí không?

- Thưa ông chủ tịch, con, í quên tôi rất sáng suốt!

Nếu câu chuyện mua thảm trải phòng ăn gây nhiều tiếng cười đùa thì đề tài mua chó con trái lại diễn ra rất nghiêm trang. Thật ra trong anh chị em chúng tôi, đã từ lâu đứa nào cũng thích nuôi một con chó trong nhà. Riêng ba, ba lại quan niệm khác : bất cứ con vật nào mà không đẻ trứng được đều là loại xa xí phẩm! Do đó khi nghe Bình-hủ-lô đề nghị ba đã phản đối ngay. Có thể vì nghĩ rằng nếu nhượng bộ đòi hỏi này ba sẽ lâm vào những tình trạng bi đát khác. Ba kinh hoàng khi tưởng tượng trong nhà, ngoài con chó của Bình-hủ-lô, sẽ còn vô số những con vật và đồ khác nữa : nào mèo của chị Thuần, chim của anh Hoài, nào thỏ của Huỳnh Sún, nào chuột bạch của Hải-đầu bò, nào xe đạp của Cu Bi, Vélo Solex của chị Mộng, Honda của em Huyền… và rồi được voi đòi tiên, dám có thể có đưa yêu sách một bàn ping-pong, một sân vũ cầu, một hồ bơi… Và như vậy tương lai của ba sẽ là nghèo đói, là lao tù vì bị các chủ nợ thưa kiện…

Bỗng tiếng của chị Mộng nổi lên, kéo ba ra khỏi cơn… ác mộng:

- Xin tán thành ý kiến của Bình-hủ-lô!

Bình-hủ-lô được thể:

- Chắc chắn mọi người sẽ khoái và vuốt ve con chó suốt ngày, riêng tôi sẽ lãnh trách nhiệm huấn luyện nó.

Huỳnh Sún cũng tán đồng theo:

- Con chó đó sẽ là bạn của chúng ta, nó sẽ nhặt các thực phẩm dư thừa, nhờ đó chúng ta sẽ tiết giảm được một số động tác đáng kể như sẽ không phải lượm lặt các đồ ăn rơi xuống đất, không phải thu dọn chiến trường sau mỗi bữa ăn.

Trước sức tấn công như vũ bão của đàn con, ba rầu rầu nói như than vãn:

- Một con chó! Trời ơi! Đó là một thiên tai đổ xuống cho gia đình này. Chúng ta sẽ trở thành nô lệ của nó. Hãy tưởng tượng đêm ngày nó hết sủa trong nhà lại ra ngoài ngõ, nó sẽ gieo rắc bọ chó khắp nơi, nó sẽ kêu gừ gừ dưới gầm giường làm sao mà ngủ cho nổi, nó sẽ liếm vào bát đĩa… Trời ơi! Cầu sao mọi người lánh xa con vật bẩn thỉu và ghê tởm này.

Chúng tôi vẫn ngồi bất động, chai đá trước những lời ca ai oán của ba. Thấy vậy, ba lại tìm đồng minh ở mẹ:

- Mình, mình ơi, hãy mở mắt ra tí nào. Từ nẫy đến giờ mình cứ ngủ không à! Mình không thấy một tương lai đen như mực tầu đang chờ đón gia đình mình hay sao? Rồi đây nhà này sẽ đầy chó, đầy mèo, đầy súc vật… mình sẽ là nạn nhân bi thảm nhất của sự đòi hỏi vô lý đó!

- Ông chủ tịch nên bình tĩnh – mẹ trả lời ba – theo phó chủ tịch nghĩ, là bậc cha mẹ, chúng ta phải tin nơi con cái của mình. Một con chó giá năm trăm bạc không đến nỗi khủng khiếp như một quỉ sứ đâu.

Chúng tôi vỗ tay rầm rầm tán thưởng trong khi ba buông mình rơi xuống chiếc ghế bành.

Cuộc bỏ phiếu kín diễn ra sau đó. Kết quả: 12 phiếu thuận, 1 phiếu chống (của ba) và 1 phiếu trắng (của mẹ).

Thế là vài ngày sau một con chó con xuất hiện trong nhà tôi đồng thời với cái thảm trải dưới bàn ăn. Chúng tôi đặt tên cho con chó là Tiểu Vương.

Tiểu Vương lớn mau như thổi. Chỉ bốn tháng sau nó đã lập được nhiều “thành tích” đáng kể: rụng lông khắp nơi – Cắn rách chiếc thảm (vì nhặt kỹ quá các thức ăn rơi xuống) – Nhá nát năm đôi bít tất (vớ) và hai chiếc giầy của ba – Tha đi mất nào guốc, nào dép, nào áo quần của chúng tôi – Cắn chảy máu chân bốn đứa trẻ hàng xóm khiến ba phải xin lỗi cha mẹ chúng tơi bời rồi lấy xe chở chúng đi y viện Pasteur – Xơi tái ba lần cái cẳng khẳng khiu của chú phát thơ và thường xuyên rượt chú bé đưa báo chạy có cờ – Hàng đêm làm ba mất ngủ vì nó chuyên môn nằm dưới gầm giường của ba mà… nghiến răng ken két…

Ba thường ôm đầu than với mẹ:

- Mình đã thấy hậu quả của sự chiều chuộng con cái một cách vô lý của mình chưa? Đúng là con hư tại mẹ! Nghĩ lại tôi tự hãnh diện vì đã đơn phương anh dũng chống lại sự đòi hỏi kỳ cục của Hội Đồng Gia Đình. Nhưng hỡi ơi, bây giờ tôi lại phải nằm gần, ăn gần cái con vật lười biếng, bẩn thỉu, hôi thối, phá phách này… Thượng Đế hỡi, có thấu cho tình con nè! Mình! Vợ yêu quí của tôi đã thấy thảm họa chưa? Trời ơi!

Dĩ nhiên mẹ cũng thấy nhưng biết làm sao được khi mà mỗi tuần họp Hội Đồng Gia Đình số phiếu của chúng tôi, 12 đứa, vẫn chiếm đa số!

__________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG BA

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

CHƯƠNG MỘT_DƯỚI MÁI GIA ĐÌNH


một

Nếu kể những gia đình hạnh phúc và gương mẫu thì không thể quên gia đình tôi. Những người hàng xóm thường gọi gia đình tôi là một thiên đàng đầy những tiếng cười và tiếng reo vui. Ba và mẹ tôi rất hãnh diện trước những lời khen tặng. Anh chị em chúng tôi thuộc dòng họ Đào, sáu trai, sáu gái cả thảy mười hai người, vừa vặn một tá!

Tôi xin mở đầu câu chuyện theo thứ tự lớn trước bé sau bằng những dòng chữ giới thiệu đặc biệt về ba tôi.

Ba tôi là một người to lớn, béo mập, cân nặng 91 ký lô. Thực ra trước đây ba đâu có… phì nhiêu như vậy ; người cũng mảnh dẻ, thư sinh và bô trai lắm cơ, nhưng không hiểu sao cách nay chừng ba bốn năm tự nhiên ba cứ bành trướng một cách vô trật tự như vậy! Mẹ bảo:

- Ba chúng mày phát tướng đấy, chắc gia đình mình sắp trúng số độc đắc!

Ba cười hềnh hệch làm rung những tảng mở chất đống trên bụng, giải thích:

- Tại tao đến thời kỳ… xổ sữa! Nhưng hỏi rằng trên thế gian này mấy ai được “cải lão hoàn đồng” như tao?

Chỉ tội thằng Huỳnh Sún (răng của nó giống hệt răng bà già ăn trầu!) mỗi lần ba xuống hoặc leo lên chiếc xe “díp” bụi đời (mua từ đệ nhị thế chiến lận) là nó phải bỏ hết trò chơi hay công việc để mang chiếc thang đặc biệt ra cho ba trèo. Có lần vì vô ý chân ba dẫm trúng tay Huỳnh Sún khiến cả năm ngón sưng vù lên. Nó mếu máo:

- Thế là đi tiêu ngón tay… búp chuối của con rồi! Còn đâu nữa bàn tay… đẹp trai!

Ba cũng xuýt xoa thương hại thằng con trai mười hai tuổi, sau đó dõng dạc tuyên bố cho cả nhà nghe thấy:

- Xét vì thằng Huỳnh vừa xả thân vì… chính nghĩa, chiều nay ba sẽ cho thằng Huỳnh năm đồng đi uống nước sinh tố để… để lấy lại sức khỏe.

Tính ba rất vui vẻ, dễ dãi và thương yêu vợ con. Mặc dầu với thân hình đồ sộ như vậy, ba làm việc dường như không biết mệt. Nhờ sự kiên nhẫn và tận tâm ba đã thành công trong xã hội. Những gì đã dạy bảo chúng tôi ba đều thực hành trước như để làm gương cho con cái.

Ba là Phó Giám đốc một cơ xưởng lớn vào bậc nhất ở thủ đô Saigon. Tinh thần làm việc khoa học không những đã được ba đem áp dụng với công nhân mà cả với vợ con trong gia đình. Chẳng thế mà hàng tuần khi dẫn chúng tôi đi thăm cơ xưởng ba bắt mỗi đứa đem theo một cuốn sổ tay, một cây viết để ghi chép tại chỗ những gì quan sát được và những lời giảng giải của ba. Ba gọi đó là phương pháp “giám định hiệu suất”.

Ở nhà ba cũng sáng tác ra phương pháp “nghiên cứu tác động” nhằm mục đích loại bớt những cử động vô ích. Thí dụ ba quay phim khi chúng tôi đang rửa bát đĩa để rồi ít ngày sau chiếu cho chúng tôi thấy cần phải “tiết kiệm” những động tác nào để hoàn tất công việc một cách nhanh chóng.

Ngoài ra ba còn cho dán trong phòng ăn, nhà tắm những tờ thời khóa biểu và chương trình làm việc trong ngày. Chúng tôi, trừ những tên chưa biết đọc biết viết, đều phải ký tên trên những tờ giấy đó sau khi đã dùng điểm tâm hay đánh răng, rửa mặt để chứng tỏ là mình đã đọc kỹ và ý thức được công việc sẽ thực hiện của mình. Mỗi tối sau khi đã dọn dẹp nhà cửa, học và làm bài xong, chúng tôi phải tự động cân trọng lượng của mình rồi ghi kết quả trên một tấm đồ thị. Ba bảo làm như vậy để chúng tôi đừng quên “sức khỏe là chìa khóa của một cuộc sống vui tươi và của sự thành công” – Mẹ tôi muốn viết thêm trên những tờ thời khóa biểu một vài câu kinh nguyện nhưng ba gạt đi và cho rằng cầu nguyện là do nhu cầu tự nhiên của tâm hồn, không nên ép buộc.

Có người hỏi đùa ba là đông con như vậy làm sao mà nhớ mặt tất cả được. Để trả lời, ba kể một câu chuyện sau của gia đình tôi : Một bữa kia mẹ tôi cần đi thăm một người bạn mới gặp nạn, nên nhờ ba ở nhà coi sóc con cái. Khi trở về mẹ hỏi:

- Ở nhà chúng nó có ngoan không đấy?

Ba cười hãnh diện, khoe “thành tích”:

- Mọi chuyện đều tốt đẹp như trong một guồng máy vậy. Đứa nào cũng ngoan, trừ tên đang đứng khóc ở xó cửa kia. Tôi phải cho hai cái bạt tai mới lôi được nó về nhà.

Mẹ tiến lại phía đứa bé, xoay mặt nó lại:

- Trời! Đâu phải con cái nhà này! Thằng Tèo con nhà bác Hai Giếng ở đầu xóm đây mà! Thiệt là… là…

Chúng tôi chỉ được biết câu chuyện trên qua lời thuật lại của ba bởi vì, vẫn theo ba tôi, hồi đó chúng tôi còn nhỏ, chưa biết gì. Tuy nhiên chúng tôi vẫn tin là sự kiện trên đã thực sự xảy ra trong gia đình tôi.

Anh chị em chúng tôi quá đông nên, ngoài giờ ăn và đi ngủ, muốn gặp chúng tôi đầy đủ quả thực là một việc hết sức khó khăn. Nhưng với ba tôi sự việc lại dễ dàng. Mỗi lần nghe tiếng còi ba thổi tích tích, tè tè là chúng tôi từ các góc nhà hoặc ngoài ngõ chạy bán sống bán chết về tập họp. Nếu chưa biết “phong tục” của gia đình tôi, chắc chắn người ta sẽ ngạc nhiên đến hoảng sợ, tưởng là có biến cố gì xảy ra mỗi lần thấy chúng tôi chạy huỳnh huỵch. Mấy con chó trong xóm lại được dịp sủa chết thôi hoặc đuổi theo đòi “sơi tái” các cẳng chân của con cái nhà họ Đào!

Thỉnh thoảng ba tôi lại ra hiệu tập họp, chẳng hạn khi có chuyện gì quan trọng ba cần hỏi ý kiến của cả gia đình, hoặc khi gặp phiền muộn ba muốn vui đùa với các con để khuây khỏa; hoặc khi có người bạn đến chơi, ba muốn giới thiệu cả nhà với họ và ba muốn chứng tỏ con của ba nhanh nhẹn và sống rất qui củ.

Đối với chúng tôi, những lần tập họp đó không phải là một thứ khổ dịch, nhưng, theo lời ba tôi dạy, tập cho chúng tôi phản ứng nhanh và biết ép mình trong kỷ luật, đó là chưa nói tới những lợi ích thiết thực trước mắt, như có lần căn nhà của người hàng xóm bốc lửa vì dây điện chạm nhau. Ai cũng hoảng hồn thất kinh:

- Ai có điện thoại làm ơn gọi sở Cứu Hỏa!

- Cúp điện hết đi!

- Kéo sập mái nhà xuống!

- Đứng để lửa cháy lan chỗ khác!

- Nhà nào có thang cho mượn đi!

Ba cũng có mặt trong đám đông và ba thổi còi. Chỉ trong nháy mắt, mười hai đứa con của ba đã hiện diện. Công tác được ban ra : Áp dụng phương pháp của Hướng Đạo. Thế là chúng tôi lăn xả vào đám cháy trước những con mắt ngạc nhiên. Chúng tôi đã phụ giúp đắc lực người lớn trong việc đàn áp ngọn lửa. Không đầy nửa tiếng sau tất cả lại êm đẹp trở lại và khi đó người ta mới nghe thấy tiếng hú của đoàn xe cứu hỏa! Những người chứng kiến việc làm của chúng tôi không ai không khen chúng tôi nhanh nhẹn, tháo vát, giỏi giang. Ba có vẻ thích chí lắm!

Tuy nhiên tiếng còi tập họp cũng có lần bị… lợi dụng : Vào một sáng chủ nhật, chúng tôi được rảnh, tản mát đi chơi đó đây. Bỗng tiếng tích tích tè tè nổi lên có vẻ khẩn cấp. Như thường lệ chúng tôi bỏ hết công việc, trò chơi để chạy lại. Thằng Hảo từ trong cầu tiêu phóng ra hai tay còn đang kéo quần, chị Thuần mặt đầy nhọ nồi hớt hải chạy tới… nhưng đứa nào cũng trố mắt vì không thấy ba đâu cả. Tôi nhanh trí kiểm điểm nhân số và nhận thấy thiếu tên Huỳnh Sún. Sau ít phút tìm kiếm chúng tôi khám phá ra hắn đang ôm bụng cười dưới gầm giường, tay còn cầm chiếc tu huýt của ba. Chờ ba về chúng tôi “báo cáo” sự việc. Kết quả : ba “tặng” cho Huỳnh Sún một bài học “mô ran” thấm thía và ra hình phạt nhịn ăn sáng hai ngày, phụ giúp chị Thuần rửa bát trong một tuần lễ và tiếp tục đều đều vác thang cho ba lên xuống xe…

Từ đó chỉ có mình ba duy nhất được sử dụng tiếng còi để tụ tập con cái. Trường hợp mẹ muốn gặp chúng tôi cũng phải nhờ ba ra hiệu.

Chúng tôi rất thương ba. Nhìn mái tóc đã điểm những sợi bạc, khuôn mặt của ba đã rõ những nếp nhăn… chúng tôi lại càng cảm thấy thương ba hơn…

*

Đến đây tôi thấy cần ghi lại ít dòng về chiếc xe “díp bụi đời” của gia đình tôi. Thật ra tôi cũng không rõ lắm lai lịch của chiếc xe này, nghe đâu vào cuối thời đệ nhị thế chiến, một ông bạn người Pháp trước khi về nước đã bán rẻ cho ba. Có lẽ trong những đồ đạc ba quý nhất chiếc xe này nên để dành nhiều công, nhiều  giờ để “trang điểm” cho chiếc díp nên nó có một hình thù đặc biệt, “không giống ai”, do đó chúng tôi mới đặt tên là “chiếc xe bụi đời”. Tuy nhiên chiếc xế bốn bánh cổ lỗ sĩ này cũng đã ghi dấu rất nhiều kỷ niệm buồn đến đứt ruột hay cười đến bể bụng của gia đình tôi. Để tôi kể quý bạn nghe:

Có một điều mâu thuẫn và khôi hài thế này : Ba tôi là phó giám đốc một cơ xưởng, hàng ngày sửa chữa biết bao máy móc phức tạp, điều chỉnh những động cơ cũ kỹ và hư hỏng trở thành tốt, chạy ngon như mới… ấy thế mà ba lại không hiểu một chút nào chiếc xe “díp bụi đời” của ba! Thật ra ba cũng săn sóc nó chu đáo lắm. “trang điểm” cho nó một “dung nhan” độc đáo : Toàn thân chiếc xe được sơn phết mầu xám đậm. Ngoài chiếc “còi” cao su. Bóp bằng tay, ba còn trang bị thêm hai còi điện tự động, mỗi loại có một công dụng riêng. Lúc bình thường, ba dùng còi cao su, bóp kêu toe toe để các xe khác hay khách bộ hành tránh ra, nhưng khi khẩn cấp hay nguy hiểm hoặc có xe khác định “hôn” xe của ba, tức thì ba cho hai còi điện rú lên. Phía sau xe ba cho đóng thùng chung quanh. Chúng tôi phản đối kịch liệt:

- Trời! Xe díp mà ba làm vậy, đâu có giống ai!

- Để gió vào cho thoáng chứ ba!

- Ối giời ôi, ba định đóng hộp chúng con như cá mòi sao ba?

Ba cười giải thích:

- Chúng mày đông lại nghịch như quỉ sứ, không làm như vậy chúng mày rớt xuống đường thì sao? Cái gì cũng phải cho chắc ăn cái đã. Nóng một chút nhưng “an toàn trên xa lộ” biết chưa? Với lại tao sẽ khoét mỗi bên hai cửa sổ để chúng mày tha hồ ngắm… phong cảnh!

Ấy cũng vì mấy cái cửa tò vò trên xe đó mà tụi lỏi cãi nhau chí chóe, đứa nào cũng đòi mình được ưu tiên chìa cái bản mặt mình ra ở cửa khiến ba phải can thiệp:

- Con trai sử dụng cửa sổ bên phải, con gái bên trái, không xâm lấn “đất đai” của nhau và mỗi đứa chỉ được quyền “tại vị” tối đa mười phút, sau đó “nhường quyền sống” cho kẻ khác. Ai bất tuân sẽ không được đi xe ba trong một tuần lễ!

Mỗi lần ba quay “ma-ni-ven” là một bi hài kịch diễn ra : Bụng ba bự nên việc phải cúi xuống quả thực là một cực hình cho ba. Mỗi vòng tay ba quay thì cả thân hình đồ sộ của ba và chiếc “díp bụi đời” đều rung chuyển một lượt, coi không khác gì hai “kẻ” đang nhảy “tuýt à gô gô”! Sáng nào cũng vậy, trước khi cho máy nổ, ba phải mồi xăng trước, có khi mất cả nửa tiếng đồng hồ mà nó vẫn ì ra như muốn chọc giận ba. Thế là “đồ nghề” lại được bày ra. Ba cởi cái này, vặn cái kia, đồng thời ra lệnh triệu tập tất cả con cái; mỗi đứa cầm một dụng cụ đứng bên cạnh để khi ba cần đến là đặt ngay vào tay ba. Cũng may, chưa lần nào chiếc xe “phản bội” ba, chỉ “nhõng nhẽo” một hồi rồi lại nổ máy rầm rầm. Chỉ tội ba sau đó phải đi thay bộ quần áo và “tẩy uế” những vết dầu nhớt tùm lum trên mặt, trên cổ.

Thật ra, ba đâu có lái xe giỏi lắm, nhưng có điều ba lái rất nhanh khiến nhiều lúc chúng tôi hoảng hồn, nhất là mẹ thường tái xanh mặt mũi luôn! Mỗi lần đi đâu, mẹ ngồi phía trước bên cạnh tay lái, đồng thời ôm hai đứa nhỏ trên lòng. Nghĩ cũng thương mẹ ghê vậy đó. Ngồi trên xe mà mẹ lo kinh khủng, chỉ sợ ba lái nhanh làm rớt đứa con nào xuống đường. Cứ đến chỗ quẹo, ba lại được dịp trổ tài “lạng bay bướm”, còn mẹ nhắm mắt lại, ôm ghì cứng hai nhóc con, miệng lẩm bẩm:

- Chạy chậm chậm chứ mình! Chậm lại đi mình!

Ba là người cẩn thận nên mỗi lần di chuyển, ba bắt một tên trong đám chúng tôi lên ngồi cạnh mẹ để coi chừng phía bên trái đường hay để báo hiệu cho ba khi có một chiếc xe khác muốn vượt. Ba đã dặn là mỗi lần ba quẹo thì nhớ giơ tay cho ba vì hai chiếc đèn hiệu đã bị rớt mất từ hồi nào! Bởi vậy khi tới ngã tư nào là cả chục cánh tay mọc ra từ các cửa sổ, đằng sau xe, từ ghế trước, từ các lỗ hổng khiến cho các xe cộ khác phải chạy chậm hay dừng lại đề phòng vì không hiểu xe của gia đình tôi sẽ quẹo hướng nào! Trong khi đó ba vẫn tỉnh bơ như coi thiên hạ chẳng có ký lô nào. Ba bảo:

- Phải bình tĩnh mới được! Không nên để ngoại cảnh chi phối!

Đúng! Ba… bình tĩnh lắm, chẳng thế mà tuần nào ba cũng được cảnh sát công lộ “hỏi thăm sức khỏe”, làm giầu cho ngân sách đô thành bằng những tờ giấy phạt vi cảnh; còn những chuyện ba cán chết chó, chết gà, ủi vào những thân cây mới trồng hay tông vào tường ga-ra mỗi khi cất xe… là chuyện thường xảy ra như cơm bữa! Tuy nhiên có điều, nhờ trời (chắc không phải là nhờ tài lái xe của ba đâu) chúng tôi chưa lần nào bị thương tích hay nguy hiểm nào! Nếu có tên nào tỏ vẻ sợ hãi thì lập tức bị ba hỏi ngược lại:

- Con cái mà không tin tưởng vào cha mẹ à?

Lại nói đến cái còi xe! Đối với chúng tôi thì không sao vì đã nghe quen rồi, nhưng ngoài đường, thiên hạ đâu có dễ tính gì, do đó mỗi lần ba cho hai chiếc còi điện… trỗi nhạc là bà con đinh tai nhức óc, lắm kẻ đang đi giật mình loạng choạng mà ngã xe hay gây ra tai nạn. Ba nghiêng đầu nói với chúng tôi:

- Các con thấy chưa, tại mất bình tĩnh! Tiếng còi này đâu lớn hơn tiếng bom B52, thế mà đã hoảng hồn! Giả thử có xe khác cũng sắm được còi như xe ba, mà ba cũng mất bình tĩnh khi nghe tiếng còi đó thì hiện gia đình mình có còn nguyên vẹn không?

Chị Thuần phụng phịu:

- Nhưng người ta nhìn mình, con thấy kỳ quá à.

- Như vậy càng tốt chứ sao, có nhìn, họ mới biết đường tránh mới khỏi tai nạn. Ta nên hãnh diện!

Kể ra ba cũng nhanh chân, nhanh tay, vừa lái xe, vừa điều khiển ba cái còi, chân đạp thắng, chân đạp “ga”, miệng còn phì phà điếu “xì gà” to hơn ngón chân cái!

Tôi nhớ lại hôm đầu tiên ba mới lắp hai chiếc còi điện đem ở tiệm về; ba cho gọi chúng tôi lại, với vẻ mặt trịnh trọng, nói như để thách thức lũ con:

- Hình như có con chim làm tổ trong… máy xe của ba. Lúc nãy chạy ngoài đường, ba cứ nghe tiếng chíp chíp hoài. Đâu, các con thử tìm xem sao. Ai khám phá ra ba thưởng một chầu ciné.

Vô tình, chúng tôi tưởng thật, mở nắp máy xe chúi đầu vào… lục lọi; có đứa bị bỏng la oai oái, đứa bị dầu xe dính đầy mặt. Chờ cho chúng tôi… say sưa tìm kiếm, ba lẻn leo lên xe, nhấn còi.

Chúng tôi cả đám như một dội ra, bịt chặt lấy tai, kinh hoàng. Ba cười ngặt nghẽo:

- Ha! Ha! Có con chim nào không?

Cười một hồi, sau ba chê chúng tôi là không nhanh trí:

- Một điều vô lý như vậy mà không đứa nào nhận ra. Máy chạy nóng đến người ta sờ vào còn không nổi huống hồ chim!

Sau đó ba cắt nghĩa cho chúng tôi những lợi ích của ba chiếc còi… và kết thúc bằng màn cả gia đình được ba mời lên xe đi một vòng để ba biểu diễn còi xe. Ngay chiều hôm đó ba khao cả nhà một chầu cà rem và chớp bóng để gọi là mừng “chiến lợi phẩm” của ba.

Một hôm, chiếc “díp bụi đời” tự nhiên giở chứng, nhất đinh không chịu nổ máy mặc dầu ba và cả chúng tôi đã toát mồ hôi sửa chữa. Thường thì ba không bao giờ rủa thề điều gì vì, theo ba nói, ba không muốn làm gương xấu cho các con, thế mà hôm đó ba cũng phải bực mình thốt ra câu: “Chiếc xe khốn kiếp!” – Nghe vậy, thằng Huỳnh Sún vội vàng lấy chiếc giẻ… lau xe phe phẩy cho ba. Đồng thời nói nhỏ như muốn chỉ một mình ba nghe:

- Bình tĩnh mà ba! Không nên để ngoại cảnh chi phối!

Thế là ba lại cười và… bình tĩnh lại ngay. Công việc sửa xe lại tiếp tục. Không ai để ý thằng Cu Bi đã leo lên chễm chệ trên đệm xe.

Ba vẫn chúi đầu vào máy. Ở xa người ta chỉ nhìn thấy hai cái chân của ba lơ lửng trong không khí. Sau lưng ba, áo ướt đẫm mồ hôi. Tôi có cảm tưởng sau “vụ” này ba sẽ… thụt ký vì hao một số mỡ “đóng băng trên bụng”. Ba đang lúi húi sửa máy bỗng tiếng còi xe ré lên. Chúng tôi thấy ba bắn ra khỏi đầu máy đến gần hai thước. Tên Cu Bi ngồi trên xe nhe răng cười:

- Ba, ba có thấy con chim làm tổ trong máy xe không ba?

Không ai nhịn được cười trước trò tinh nghịch của thằng em sáu tuổi này. Tuy nhiên kết quả Cu Bi vẫn bị bốn năm cái phát vào mông và quì gối vì áp dụng câu nói của ba không hợp tình, hợp cảnh, hợp lý!

Mỗi lần muốn chở gia đình trên chiếc “díp bụi đời” đi xem phố phường, ba tôi thổi tu huýt tập họp. Khi đã đủ “bá quan văn võ”, ba dõng dạc tuyên bố:

- Các con muốn đi dạo một vòng với ba không?

Chúng tôi đứa nào cũng hiểu rằng đó không phải là một câu hỏi nữa mà là lệnh truyền nên đồng thanh trả lời:

- Thưa ba có ạ!

Dường như sự kiện trên đã đương nhiên trở thành luật lệ của gia đình tôi : khi ba dạo phố là mọi người phải dạo phố.

Như trên tôi đã kể ba lái xe đâu có “gồ” lắm, nếu không muốn nói là đầy nguy hiểm bởi lối phóng nhanh như bay, bởi những “cú”… “lạng lả lướt” của ba thật tình quá ư “anh hùng xa lộ” làm xanh máu mặt những người trên xe, nhưng chúng tôi phải công nhận rằng có một cái gì hấp dẫn lạ lùng trong những lần ba “bay bướm” với tử thần, những lần ba gây cảnh ngưng trệ lưu thông ngoài thành phố… nên, mặc dầu mỗi lần đi chơi với ba về chúng tôi đều cám ơn Thượng Đế đã giữ gìn còn nguyên vẹn đầu mình và tứ chi, chúng tôi vẫn thích thú reo hò khi ba hỏi:

- Các con có muốn đi dạo một vòng với ba không?

Ngoài ra, những lần đi dạo bằng xe hơi là dịp chúng tôi được quây quần bên cạnh ba với mẹ. Tên nào được ba chỉ định ngồi ở ghế trước để ra hiệu cho ba quẹo trái hoặc canh chừng các xe khác, được coi là may mắn như trúng số… đề. Tuy nhiên vì anh em thương nhau và muốn đứa nào cũng được ngồi cạnh mẹ để mẹ hỏi han, để được mẹ xót xa khi nhìn thấy những xây xát ở chân tay hoặc để mẹ lo sợ ôm ghì lấy mỗi khi ba nổi hứng lái nhanh hay cán phải con chó, con gà… nên chúng tôi đồng ý thay phiên nhau, mỗi đứa ngồi cạnh mẹ nửa tiếng đồng hồ, sau đó nhường sự “may mắn” cho kẻ khác. Lúc đầu thấy vậy ba chậc lưỡi, kêu:

- Các con làm gì như sao đổi ngôi vậy, rối mắt làm sao ba điều khiển xe được?

Huỳnh Sún, tên nổi tiếng lém lỉnh và nhanh mồm nhanh miệng nhất nhà, vội lập lại câu nói mà ba vẫn dùng để trấn an con cái:

- Bình tĩnh mà ba, không nên để… ngoại cảnh chi phối!

Ba với tay lại phía sau, “thưởng” cho Huỳnh Sún một cái nhéo tai làm hắn méo xệch miệng, để hở hai hàm răng “chiếc rụng chiếc lung lay” và đen như hạt mãng cầu.

Trước khi đi chơi ba bắt chúng tôi phải ăn mặc đàng hoàng và sạch sẽ. Thời gian để “trang điểm nhan sắc” được đo bằng việc ba vào ga-ra lấy xe ra đậu trước cổng. Trong khi những tiếng rầm rầm vọng ra từ nhà để xe (do ba quay ma-ni-ven và do ba lùi xe ra đụng vào hai bên tường) thì trong phòng ngủ của chúng tôi diễn ra một cảnh náo loạn : đứa lục tủ tìm quần áo, đứa kêu mất chiếc giầy, đứa rượt theo con mèo tam thể để “đòi” lại chiếc bít tất, thằng than cái quần bị lủng một lỗ to bằng bàn tay mà các bà chị cứ quên không chịu vá cho, thằng mượn kim băng để cài áo vì cả hàng cúc đã “ra đi không hẹn ngày về”… Tuy vậy chúng tôi hành động rất nhanh, áp dụng đúng phương pháp của ba : ngoài  sự trách nhiệm với chính bản thân mình, mỗi đứa lớn lại có bổn phận chăm sóc đứa bé, như chị Thuần lo cho bé Huyền, chị Mộng lo cho Cu Bi, Hoài “phụ trách” Huy, Huỳnh Sún “phò tá” tên Hải đầu bò, Bình “hủ lô” o bế Phương tự “Tư lựu đạn”… Sự phân chia công tác này không hẳn chỉ dành riêng cho việc sửa soạn đi chơi mà được thực thi trong mọi trường hợp. Chẳng hạn mỗi buổi chiều đứa lớn thay quần áo cho đứa bé, rửa tay chân, sắp xếp sách vở, khảo bài học, đi tìm nhau nếu có tên nào vắng mặt khi tới giờ cơm…

Tuy nhiên ai cũng phải công nhận rằng sở dĩ mọi công việc đều êm đẹp trong gia đình đều nhờ tài năng của mẹ. Điểm đặc biệt là mẹ không bao giờ la mắng to tiếng hay nóng giận, không bao giờ dùng roi vọt với con cái. Mẹ đúng là một nhà tâm lý và thường gặt hái được nhiều kết quả đối với lũ con hơn là ba. Chúng tôi, đứa nào cũng “chịu” mẹ cả.

Khi thấy chúng tôi tíu tít sửa soạn “nhan sắc” mẹ đi từ bọn này đến bọn khác, hết tập trung những quần áo dơ lại đi cài cúc áo cho mấy đứa nhỏ, hết tìm giầy cho con trai lại chải đầu cho con gái…

- Mẹ! Anh Huỳnh lấy áo của con đây nè, mẹ bảo anh ấy trả con đi.

- Mẹ! Tự nhiên chị Mộng lại kí vào đầu con đấy, mẹ ạ.

- Mẹ! Lát nữa cho con ngồi cạnh mẹ nhá!

Tiếng la, tiếng gọi như ong vỡ tổ, khiến mẹ nhiều lúc tối tăm mặt mũi, nhưng rồi đâu cũng vào đấy.

Khi chúng tôi đã tập họp đông đủ, ăn diện thật “láng”, con trai đồng loạt quần đen áo sơ mi trắng, con gái lớn vận áo dài xanh, con gái nhỏ được phép “diện” đồ đầm màu hồng, mẹ điểm danh từng đứa một; và chỉ những ai được gọi tên mới có quyền leo lên xe.

Chúng tôi cho rằng việc điểm danh đó làm mất thời giờ và phí phạm động tác mà đối với gia đình tôi không gì lỗi nặng bằng, không biết “kiệm ước” thời giờ và động tác. Tuy nhiên sự phản kháng của chúng tôi đã bị chứng minh ngược lại bằng hai vụ sau đây:

Một lần ba mẹ dẫn chúng tôi xuống thăm một chiến hạm ngoại quốc sắp nhổ neo rời bến Bạch Đằng. Vì sơ ý không điểm danh lúc trở lên bờ nên khi chiếc cầu tầu đã được rút lên, người ta đã sửa soạn nhổ neo, chị Thuần mới hoảng hốt kêu:

- Ủa, em Phương đâu rồi?

Sau một hồi tìm kiếm, chúng tôi khám phá ra hắn đang nằm ngủ ngon lành trong một chiếc ghế bành trên boong tầu và… chiến hạm rời bến trễ mất hai mươi phút.

Lần khác, gia đình tôi đã bỏ quên bé Huyền trong một quán ăn trên Thương xá Tam Đa, mà mãi khi về gần đến nhà chúng tôi mới nhận ra. Thế là ba lại vội vàng quay xe lại để rồi tìm thấy bé Huyền đang ăn chung cây cà rem với thằng bé con người chủ quán ở trong bếp.

Hai kinh nghiệm trên đây đã cho thấy sự khôn ngoan, sự cẩn thận và hợp lý của mẹ là “nhất trên trần gian!”.

Khi mọi người đã có chỗ ngồi trên xe, ba cho chiếc “díp bụi đời” từ từ chuyển bánh, nhả lại phía sau những đám khói mù mịt cùng những tiếng toe toe của chiếc còi cao su và tiếng ré của hai còi điện tự động.

Tuy nhiên điều làm chúng tôi khổ tâm nhất là những lần ba nổi hứng bất tử dừng xe lại rồi đề nghị:

- Để “thay đổi không khí”, gia đình mình xuống đi bộ cho gân cốt dẻo dai.

Thế là “bé trước lớn sau” theo chân ba mẹ đi diễu phố, không khác gì một tiểu đoàn đi duyệt binh. Dĩ nhiên cảnh tượng “không giống ai” này đã có sức thu hút những cặp mắt của người đi đường. Một vài thằng con trai chọc ghẹo chúng tôi bằng cách đếm nhịp chân:

- Bước đều, bước! Một hai, một hai!... ắc ê, ắc ê, bên phải, quay!...

Tội nghiệp mấy chị lớn của tôi cứ phải cúi xuống che bộ mặt đỏ như gấc. Ba và mẹ mải nói chuyện với nhau, chẳng để ý gì. Đó là chưa kể những lời bình phẩm khác nữa của người lớn, chẳng hạn:

- Trời, thời buổi “kinh tế mùa thu” này mà nuôi được cả lũ con đông thế kia cũng đủ chết dở!

- Kể ông bà cũng khéo “nặn” đấy chứ, vừa đúng một tá!

- Chúa ôi! Con cái đông thế kia lấy gì mà nuôi!

Cho đến một lần, anh chị em chúng tôi lặng người đi khi nghe thấy một câu nói nổi lên ở phía sau:

- Hình như người ta dẫn trẻ mồ côi đi chơi phố!

Thì ra kiểu áo đồng phục của chúng tôi đã khiến họ suy đoán như vậy, một điều mà chúng tôi chưa lần nào để ý tới. Thế là chúng tôi nhất định đòi ba mẹ cho về bằng được. Ba bỡ ngỡ, chúng tôi mặc kệ, mẹ hỏi lý do, chúng tôi lặng thinh… Mãi đến khi cơm tối xong, anh em chúng tôi kéo cả lên xin “yết kiến” ba mẹ để bày tỏ… lập trường. Chị Thuần lớn nhất được cử làm đại diện “phát biểu cảm tưởng”:

- Xin ba mẹ từ nay cho phép chúng con được thay đổi cách ăn mặc, chứ vận đồng phục… người ta lại gọi chúng con là trẻ mồ côi!

Ba nhướng mắt lên, ngạc nhiên:

- Mồ côi? Mồ côi mà có xe hơi đi? Bộ các con chê quần áo đó sao? Đắt tiền lắm chứ! Nếu các con hiểu rằng…

Ba chưa nói hết câu, mẹ vội lên tiếng:

- Mình ạ, lần này các con nói có lý đấy.

Rồi mẹ quay lại nói với chúng tôi:

- Được, mẹ sẽ may cho các con nhiều kiểu, nhiều màu quần áo khác nhau.

Kết quả thật tốt đẹp ngoài ý muốn của chúng tôi, không ngờ “cuộc cách mạng” thành công chớp nhoáng như vậy.

Ba mỉm cười nhìn mẹ “nịnh đầm”:

- Hoàn toàn đồng ý với mình! Mình bao giờ cũng sáng suốt, khôn ngoan và…

Chúng tôi cất tiếng cười vang, kéo nhau chạy ra ngoài. Đàng sau, có lẽ mẹ đang… đỏ mặt!

__________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG HAI

Dưới Mái Gia Đình


Truyện : HOÀI MỸ
Loại hoa xanh
Tủ sách Tuổi Hoa - 1972

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Cuộc Chia Tay


Haley cho xe chạy vùn vụt giữa đám bụi mù mịt. Quang cảnh quen thuộc ven đường lướt qua trước mắt Tom như những bóng ma, bác ngồi lặng thinh, như không nghe, không thấy gì hết.

Lát sau, xe vượt ranh giới trại ông Shelby và đến con đường chính.

Được một dặm nữa, Haley dừng xe trước cửa một lò rèn. Gã vào đó để chọn mua cho Tom một cái còng vừa tay bác. Chỉ vào cái còng gã cầm trên tay, chỉ vào bác Tom đang ngồi ủ rũ trên xe, gã nói:

- Cái còng này quá nhỏ đối với tên nô lệ to con…

Nhận ra Tom, người thợ rèn giật mình, kinh ngạc:

- Sao? Tom của trang trại ông Shelby mà bị chủ bán đi ư? Tôi không tin điều này, ông ấy không bao giờ bán nô lệ đâu, nhất là nô lệ cỡ Tom.

- Phải! – giọng Haley ngạo nghễ – ông chủ quí thằng ấy lắm, nhưng… chính ông ta đã bán nó cho tôi.

- Lạ thật! Chuyện khó tin quá. Shelby bán Tom? Tôi biết chú Tom này, một tên gia nhân đắc lực, trung thành của ông Shelby. Mà thưa ông, ông khỏi phải còng tay chú ấy làm gì, tôi cam đoan…

- Thôi đi bạn, cẩn tắc vô ưu. Chính những thằng nô lệ khôn ngoan trung thành mới là đáng sợ, chúng sẵn sàng bỏ trốn bất cứ lúc nào. Còn bọn ngu si thì kể gì, chỉ cần ăn no là được, chúng nó biết chi đâu? Hạng lão Tom này thì không ưa đổi chủ, nguy hiểm ở chỗ đó. Tôi có cách trị : xích kỹ chúng lại thì vững tâm nhất, khỏi thắc thỏm gì ráo trọi. Tiền không đấy nhé, mà lại đắt giá nữa chứ. Thôi, đừng làm cố vấn cho tôi, bà Shelby ban nãy cũng nói như bác đấy, mà tôi có nghe đâu.

Vẻ đăm chiêu, bác thợ rèn nói:

- Hình như bọn nô lệ da đen ở Kentucky này rất sợ và ghét vùng đất phía Nam. Họ bị chết dễ dàng…

- Phải, khí hậu ở đó hơi độc, và còn, còn nhiều thứ nữa kia.

- Chính thế, thật là một bất hạnh lớn cho bác Tom, một người tốt như thế mà phải đầy xuống miền Nam. Ngay tôi đây, không liên hệ gì, trông thấy thế tôi cũng không vui được. Tội nghiệp quá!

- Tuy vậy, hắn vẫn còn may mắn chán, tôi đã hứa sẽ đối xử tử tế với hắn, tôi sẽ bán hắn cho gia đình nào có tiếng và hiền lành, không đối xử khắc nghiệt với nô lệ da mầu và tôi tin là hắn sẽ không đòi hỏi chi hơn.

- Nhưng ông quên rằng chú ấy phải xa lìa con và vợ chú…

- Ố! Kể gì chuyện đó.

Suốt cuộc đối thoại, Tom ngồi yên trên cái xe đậu trước cửa lò rèn. Thình lình, bác nghe có tiếng vó ngựa nện trên đường lớn, khô khan và gấp rút. Rồi thì tiếng động nhanh hơn, rõ hơn và nhanh như cắt, cậu tiểu chủ lao tới, leo lên xe, đưa tay ôm chặt quanh cổ bác Tom, miệng kêu lên mừng rỡ trong khi Tom cũng mừng không kém nhưng chưa hết sững sờ vì sự có mặt bất ngờ. Cậu nói bằng giọng hậm hực:

- Thật là nhục nhã! Thật là xấu hổ! Không ai cho tôi biết việc này cả. Nếu tôi là người lớn thì việc này không bao giờ xảy ra, không bao giờ!

- Cậu Georges ơi! Tôi mừng quá khi thấy cậu đến đây – Tom tươi ngay nét mặt lên – Tôi sẽ khổ sở biết ngần nào nếu ra đi mà không gặp cậu. Cậu đã tốt với tôi biết bao nhiêu, tôi xin thề như vậy!

Bác Tom dịch chân, cậu tiểu chủ nhìn thấy mấy cái xiềng sắt, cậu khựng lại sững lặng vì đau đớn. Giây sau cậu la to:

- Khốn nạn chưa! – Georges giơ cả hai tay lên trời – Tôi phải đập thằng quỉ này một trận, tôi phải đập nó… Nó dám xiềng người ta…

- Không! Cậu Georges! Không! Đừng gây với ông ta, ông ta giận lên thì khổ cho tôi thêm mà thôi, cậu à!

Bác Tom nói với tiểu chủ, giọng khẩn thiết làm cho cậu hiểu rằng sự nóng nảy của mình có hại cho Tom : cậu đâu có thể theo cạnh Tom để bảo vệ che chở như ý muốn? Tom hiện giờ thuộc quyền lão buôn người rồi. Georges dằn lòng xuống:

- Thôi, tôi nghe lời bác vì tôi tôn trọng bác, tôi thương bác lắm… nhưng bố Tom ơi! Hễ nghĩ tới điều này thì tôi không chịu nổi, xấu hổ quá đi thôi! Bác có biết không : cả nhà đều giấu tôi chuyện này, có ai cho tôi hay biết gì đâu, may nhờ có anh Thomas báo tin cho tôi đó nghe… Hừ! Vậy mà tôi luôn luôn kính trọng họ đấy chứ… Khốn nạn quá đi!

- Georges ơi! Đừng nên nói như vậy, cậu lầm đấy…

- Hừ! Lầm à, không đâu! – chợt cậu con trai đổi giọng thấp xuống và có vẻ bí mật – này bố Tom, tôi có đem cho bố cái này này, đồng đô-la vàng của tôi…

- Ờ, không đâu. Cậu ơi, tôi không nhận đâu, dù tôi rất quí cậu, quí hơn…

- Bác phải cầm lấy – Georges cương quyết nói – Tôi đã bàn với bác gái rồi, bác bày tôi đục một cái lỗ nho nhỏ giữa đồng vàng, xâu một sợi dây xuyên qua đó để bác mang vào cổ. Bác phải giấu nó trong áo, đặng thằng khốn đó không thấy, nó mà thấy thì, ờ, nó dám cướp đó nghe bác Tom! Đừng để tôi buồn, bác phải nhận tôi mới bằng lòng.

- Coi, đừng cậu Georges! Tôi không dám nhận đâu.

- Sao lại không? Bác cứ ngồi yên!

Cậu nói và nhanh nhẹn luồn sợi dây có buộc đồng vàng quanh cổ bác Tom, giọng cậu hăng hái:

- Đó, có gì đâu? Hễ khi nào bác nhìn thấy nó thì bác nhớ đến tôi và hãy tin là một ngày kia tôi sẽ sang tận đó tìm chuộc bác về. tôi đã hứa với bác gái và chắc chắn sẽ thực hiện lời hứa. Tôi sẽ tự lo và còn ba tôi nữa, tôi sẽ nhắc ông hoài, không để ông quên đâu.

- Đừng cậu! Đừng giục giã ông, tôi van cậu đó, tiểu chủ ơi!

- Kìa bác Tom, bác sợ gì? Với lại tôi sẽ biết cách, tôi sẽ lựa lời chứ.

- Georges ơi! Kể từ đây tôi xa cậu. Tôi mong cậu sẽ tỏ ra là một người đàng hoàng. Đừng quên là ông bà đặt nhiều tin tưởng ở cậu. Đừng để bị lôi cuốn vào những tư tưởng cũng như hành động xấu, đừng để cho tuổi trẻ ngông cuồng làm hỏng đời mình. Đừng tưởng là cậu lớn rồi. Cậu nên nhớ là có rất nhiều thứ hạnh phúc mà Chúa cho ta hưởng đến hai lần, nhưng ngài chỉ ban cho ta duy nhất một cha, một mẹ thôi. Hơn nữa, tôi dám nói là cậu sẽ không tìm ra một phụ nữ nào từ tâm, đại lượng, có lòng hơn bà, dù cho cậu có sống lâu trên trăm tuổi đi nữa. Hãy sống cạnh bà, lúc trưởng thành cậu sẽ là nơi cho bà nương tựa tuổi già. Cậu Georges ơi, cậu nghe lời tôi vừa nói chứ?

Georges nghiêm giọng trả lời:

- Vâng! Tôi xin hứa với bác đó, bác Tom! Tôi sẽ làm y như lời bác dặn dò. Tôi sẽ cố để nên người tốt sau này. Mà bác nữa, bác đừng nản chí nghe? Tôi sẽ cố gắng để có thể cất lại căn lều cho bác, từ nóc tận nền. Bác sẽ có một phòng khách thật ngon lành, một tấm thảm thật lớn, thật đẹp, khi tôi lớn lên. Tôi hứa phải làm cho bác sung sướng tuổi già để bù lại những khổ nhục do cha mẹ tôi gây ra, bác nhớ chưa? Tôi xin hứa!

Haley từ trong lò rèn trờ mặt tới, tay lủng lẳng cái còng sắt. Georges hết sức bất bình nên dù đã hứa với Tom, cậu không thể làm ngơ, cậu bảo gã ta:

- Ông Haley, sao ông lại còng xích bác Tom? Tôi sẽ cho ba mẹ tôi biết cách cư xử tồi tệ này, ông phải nhớ…

Giọng thách thức, gã buôn người cười khẩy:

- À, cái đó quyền của cậu, còn còng tên này hay không là quyền của tôi. Cậu chủ nhỏ ơi! Cậu đã quên là tôi đã trả tiền cho cha cậu mới bắt được tên mọi này đi hay sao?

Georges giận sôi lên:

- Ông không biết xấu hổ ư? Đáng lẽ ông phải biết chứ : cái nghề buôn người của ông… xiềng xích người ta như đối với súc vật. Thứ nghề hạ tiện…

- Cứ mắng đi cho sướng miệng! Nhưng mà này, thưa công tử! Công tử nghĩ kỹ chưa mà dám mạt sát kẻ khác chứ? Nếu không có hạng người làm cái nghề hạ tiện như kẻ hèn này thì ông già khả kính của cậu sẽ lúng túng lắm đấy nhé! Kẻ dư nô lệ và cần tiền thì bán, người thiếu nô lệ thì mua. Tôi theo đúng luật cung cầu mà, sao cậu lại bảo tôi phải xấu hổ, xấu hổ chỗ nào? Chả lẽ người sang trọng quí phái như cha cậu mà lại đánh xe đưa nô lệ đi rao bán, coi sao được? Đáng lẽ cậu cám ơn tôi thì đúng hơn.

Georges tức lộn gan lên, nhưng không thể nào trả đũa lão ta, lão nói cũng… đúng đấy chứ? Georges nói như quát:

- Sau này lớn lên, tôi sẽ không bao giờ làm người mua nô lệ mà cũng không bao giờ bán. Tôi ghét việc mua bán này, nhục nhã lắm. Trước nay tôi rất hãnh diện là một công dân ở đất Kentucky này, nhưng bây giờ tôi xấu hổ quá, quá lắm!

Cậu quay sang Tom:

- Thôi tạm biệt bác Tom! Can đảm lên bác nhé!

- Vĩnh biệt cậu, cậu Georges! Xin Chúa từ tâm ban ơn cho cậu! Chúc cậu được nhiều phúc lành ở xứ Kentucky này.

Tom nhìn đăm đăm vào tiểu chủ, bằng đôi mắt nồng nàn, trìu mến, giọng nghẹn ngào, thổn thức.

Georges quay vội đi, lên ngựa, ra roi. Tom dõi mắt theo cho đến kỳ khuất bóng cậu, cho đến khi vó ngựa nhỏ dần, nhỏ dần và tắt hẳn.

Mắt Tom mờ đi, tai Tom ù đặc, miệng Tom câm lặng. Bác không nói, không thấy, không nghe gì nữa. Trong mơ hồ, ngôi trại của chủ nhân như hiện ra… cùng với cái bóng dáng nhỏ nhắn của cậu con trai. Bác nấc lên khóc, khóc, khóc… Trong đời bác chưa bao giờ bác đau đớn đến mức này. Và rồi đồng tiền cậu trai mang vào cổ bác chạm vào da lành lạnh khiến bác như được an ủi phần nào. Tom ép sát nó vào ngực mình, trong khi nước mắt cứ dâng lên làm nghẹn cổ, mờ mắt con người đáng thương kia.


MINH QUÂN                
(trích trong “Túp lều của chú Tom”
của Harriet - Beecher - Stowe)


(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 216, ra ngày 1-1-1974)

Tiến trình của Lịch



Hôm nay thứ mấy? Ngày mấy? Chừng nào đến ngày lễ? Nhìn lên tấm lịch, ta đã tìm thấy câu trả lời. Tấm lịch thật giản dị, vậy mà người ta phải tốn hằng thế kỷ mới đem đến công trình nầy.

Thật vậy, muốn tìm hiểu gốc tích của lịch, ta phải ngược lại thời gian, lâu lắm, có lẽ vào thời con người vừa sáng chế chữ viết.

Thuở xa xưa ấy, người ta bắt đầu đếm từng ngày hoặc đếm từng đêm, chứ chưa quan niệm ngày và đêm là một như chúng ta ngày nay.

Nhưng chừng người đời trước căn cứ vào đêm nhiều hơn. Đêm đến, họ nhìn lên bầu trời, và điều làm họ chú ý nhất là sự thay đổi của mặt trăng. Trăng tròn, rồi khuyết dần từng đêm cho đến khi biến mất, rồi nó lại xuất hiện theo hiện tượng trở ngược như trên. Từ ngày trăng tròn này đến trăng tròn kia quả là một đơn vị đo thời gian khá chính xác nhất. Người ta mới đặt tên đơn vị ấy là tháng. Chữ Hán là “nguyệt”, cũng có nghĩa là mặt trăng. Trong tiếng Anh, “month” (tháng) cũng phát xuất từ chữ “moon” (mặt trăng).

Sự chuyển vận của trái đất và mặt trăng trong thái dương hệ đã tạo ra lịch. Thật thế, trái đất xoay quanh chính trục của nó cho ta cái cảm tưởng mặt trời mọc và lặn, ngày và đêm từ ấy phát sinh. Việc mặt trăng xoay quanh trái đất tạo ra tháng và việc trái đất xoay quanh mặt trời tạo nên 4 mùa và thành một năm.

Tổ tiên chúng ta chưa biết sự chuyển vận ấy, họ chỉ nhận xét theo sự thay đổi thời tiết, nhiệt độ ánh sáng tại cùng một nơi rồi đặt tên như thế, cốt để ghi dấu thời gian. Vào lúc nầy, chưa ai có ý tưởng xếp đặt ngày, tháng, năm vào một hệ thống hẳn hoi ; dù biết rằng chu trình của trái đất quanh mặt trời khoảng 365 ngày. (Người ta biết được là nhờ óc nhận xét cứ 365 ngày thì thời tiết giống nhau một lần). Sự so le, không vừa vặn giữa ngày, tháng, năm làm cho người ta rối trí.

Rồi “đùng” một cái, các tay “thái sư” Babylone thực hiện một tấm lịch đầu tiên. Trong lịch này có tháng 29 ngày, có tháng 30 ngày và một năm 12 tháng. Nhưng chẳng bao lâu, tháng ghi trong lịch đã trượt ra khỏi mùa. (Chẳng hạn như tháng 12 là mùa đông thì chỉ vài mươi năm sau nó rơi vào mùa xuân hay mùa thu, có khi cả… mùa hạ nữa!)

Lúc ấy người Hy Lạp và La Mã cũng dùng lịch Babylone. Nhưng sau đó, một vài sự kiện chính trị tại La Mã đã biến đổi lịch sang một giai đoạn mới.

Thật thế, khi các nhà soạn lịch không ưa người cầm quyền, họ rút ngắn nhiệm kỳ các “đấng” này bằng cách không đặt thêm tháng nhuận vào năm thiếu. Mặt khác, nếu gặp người họ thích, các ông soạn lịch đặt thêm nhiều tháng nhuận nữa, mặc dù năm ấy đủ!

Khi Julius Caesar (César) lên lãnh đạo đế quốc La Mã thì tấm lịch đã đi đến chỗ quá tệ hại. Caesar quyết định bỏ âm lịch và yêu cầu các nhà thiên văn soạn một loại lịch mới. Lịch nầy căn cứ theo lịch người Ai Cập. 

Người Ai Cập lấy sao Sirius làm chuẩn. Năm mới bắt đầu khi ngôi sao này xuất hiện ở chân trời phía Đông vào lúc bình minh.

Do tính ra một năm có 365 ngày một phần tư, các nhà thiên văn quyết định trong 3 năm liên tiếp có 365 ngày còn năm thứ tư có 366 ngày gọi là năm nhuần.

Vì lịch mới không cần căn cứ theo con trăng, các ông chia năm sao tùy ý. Cuối cùng họ đồng ý chia năm thành 12 tháng dài tương đương với nhau (giống lịch cũ).

Lúc đầu có 5 tháng 31 ngày (tháng lẻ) và 7 tháng 30 ngày (tháng chẵn). Nhưng người La Mã tin rằng số lẻ đem lại may mắn, họ lấy một ngày của tháng 2 (tháng chẵn) thêm vào một tháng x chẵn khác. Như thế có thêm 2 tháng lẻ nữa!

Sau khi tấm lịch hoàn thành, Julius Caesar chọn tháng bảy lấy tên ông. Do đó các ngôn ngữ bắt nguồn từ gốc Latin đều lấy chữ Julius cho tháng 7 như July (Anh), Juillet (Pháp).

Mấy năm sau, Augustus Caesar lên ngôi, tên ông này được đặt vào tháng kế tiếp (tháng tám) : August (Anh), Août (Pháp). Nhưng tháng của hoàng đế có 30 ngày, không được! Nhà soạn lịch lại lỉnh kỉnh rút một ngày của tháng hai thêm vào trong tháng tám. Cho đến ngày nay, tháng bảy và tháng tám đều lẻ cả. Lịch ni được gọi là lịch Caesar hay dương lịch cũng rứa.

Còn một ngày của năm nhuận được thêm vào tháng hai, 4 năm một lần.

Người ta dùng lịch này suốt 1.500 năm mới có ông Gregory phát giác một sự sai lầm trong lịch Caesar: âm thầm, từ tốn, các ngày lại trượt ra khỏi mùa!

Nhờ sự giúp đỡ của một nhà thiên văn người Ý, ông tìm thấy một năm không hoàn toàn đúng 365 ngày và một phần tư. Sau cuộc tìm tòi, ông đi đến kết luận năm chia chẵn cho 100 (số bội giác của 4) không phải là năm nhuần, mà năm chia chẵn cho 100 ấy nếu chia chẵn cho 400 thì cũng là năm nhuần.

Để sửa cho phù hợp với mùa, Gregory kéo dương lịch lên 10 ngày. Ngày 5 tháng 10 năm ấy được sửa lại thành ngày 15 (1582).

Tại các xứ nói tiếng Anh, mãi đến năm 1752 mới chấp nhận sự sửa đổi. Lúc ấy số ngày trượt lên đến 11 ngày. Nhiều người cho rằng họ “giảm thọ” hết 11 ngày. Thế là thiên hạ ào ào xuống đường, rất sôi động và vĩ đại với khẩu hiệu: “Trả lại 11 ngày sống của chúng tôi”!

Cùng lúc, năm mới của lịch Caesar được chọn là ngày 1 tháng giêng thay vì ngày 25 tháng ba như lúc trước.
Với sự bành trướng kỹ nghệ bên Âu Châu thế kỷ XVIII, XIX, các nước nầy đi chiếm đất làm thuộc địa ở Á cũng như Phi, làm dương lịch càng ngày càng trở nên quan trọng.

Hiện nay phần lớn các nước trên thế giới đều dùng dương lịch một cách chính thức để có thể liên lạc dễ dàng với nhau.

Ngoài dương lịch còn có Phật lịch (căn cứ theo âm lịch) thường chỉ dùng trong việc tế tự, lịch Do thái, lịch đạo Hồi… Các năm theo các lịch nầy cũng dài tương đương với dương lịch. Như năm nay:

- Theo dương lịch (Căn cứ năm Thiên Chúa giáng sinh) là năm 1970.

- Theo Phật lịch (căn cứ năm Phật đản sinh) là năm 2514

- Theo Hồi lịch là năm 1389.

- Theo Do thái lịch là năm 5731.

Mới đây, một số quốc gia đã dùng Thế giới lịch, hình thức cũng tương tự như dương lịch, nhưng có vài điểm khác biệt như tháng hai có 30 ngày (thay vì 28 ngày), năm nhuần thêm một ngày vào cuối tháng sáu v.v…
Và dẫu thế nào chăng nữa, công trình của những người đi trước đã đem lại cho chúng ta một bảng thời biểu để ghi dấu thời gian. Công trình ấy, kết quả ấy – nếu nhận xét cho kỹ – đã giúp ta rất nhiều trong những công việc hằng ngày, ngay những lúc nhìn lại quá khứ hay nghĩ đến tương lai…

 
ĐÌNH sưu tầm            
(Theo Encyclopeda Golden Press)


(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 137, ra ngày 15-9-1970)
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>